Nên gọi là Chè hay Trà?

Miền Bắc dùng chữ chè để chỉ cây trồng và sản phẩm chế biến của cây chè, còn miền Nam phân biệt chè là cây trồng và trà là sản phẩm chế biến từ cây chè.
Ngôn ngữ viết và nói về chữ trà dùng ở Việt Nam từ lâu đời, có nguồn gốc từ Trung Hoa, và đã trở thành một từ Việt phổ thông trong dân gian. Trà là âm Hán Việt, còn chè là âm Việt Hán (Diệp Đình Hoa – Hội thảo Văn hoá chè 1999, Hà nội).
Ngôn ngữ viết và nói về chữ trà dùng ở Việt Nam từ lâu đời, có nguồn gốc từ Trung Hoa, và đã trở thành một từ Việt phổ thông trong dân gian. Trà là âm Hán Việt, còn chè là âm Việt Hán (Diệp Đình Hoa – Hội thảo Văn hoá chè 1999, Hà nội).


Miền Bắc dùng chữ chè để chỉ cây trồng và sản phẩm chế biến của cây chè, còn miền Nam phân biệt chè là cây trồng và trà là sản phẩm chế biến từ cây chè.
Ngôn ngữ viết và nói về chữ trà dùng ở Việt Nam từ lâu đời, có nguồn gốc từ Trung Hoa, và đã trở thành một từ Việt phổ thông trong dân gian. Trà là âm Hán Việt, còn chè là âm Việt Hán (Diệp Đình Hoa – Hội thảo Văn hoá chè 1999, Hà nội).
Trong Từ Điển Tiếng Việt của UBKHKT Việt Nam – 1994, chữ chè có các nghĩa :
Trong Từ điển của Trung Tâm Ngôn Ngữ và Văn Hoá Việt Nam của Bộ GDĐT- 1998, chữ trà có các nghĩa :
Còn trong tác phẩm văn chương thời xưa và nay, đã dùng chữ chè – trà như sau :
Thời nay, Miền Bắc vẫn dùng chữ chè chỉ cả cây trồng và sản phẩm “ Chắc chắn nước chè xanh là mặt hàng cốt yếu “ (Nguyễn chí Hoan) ; “ Văn hoá chè và Trà Đạo Việt Nam “ (Ngô Linh Ngọc) ; “ Viện nghiên cứu chè Phú Hộ có nhiều giống chè như Trung Du, Shan, Trung Quốc và ấn Độ “ ; “ VINATEA trong năm 1998 đã xuất khẩu 17.000 tấn chè đen, chè xanh “ ; “ Nguồn gốc cây chè và nghệ thuật pha uống chè “ (Minh Viễn)
Tại Việt Nam, trong đông y còn dùng các loại cây không thuộc Họ Chè, có tác dụng chữa bệnh gọi là chè thuốc, mà dân tộc nào cũng có. Chè thuốc pha theo kiểu pha chè, được nhân dân rất ưa thích. Ngày nay y dược Việt Nam, ngay cả các nước có công nghiệp hoá dược hiện đại, vẫn bào chế các loại chè thuốc này, như các loại chè giải nhiệt, chè an thần, chè chống cảm cúm ….
Còn ở miền Nam thì dùng chữ trà và chè, có phân biệt rõ rệt cây trồng và sản phẩm chế biến như “ Công Ty chè Lâm đồng có trà Rồng vàng “, “ Người dân miền Nam thích uống trà Tiến Đạt, Đỗ Hữu, Châm Anh “, “ Trạm nghiên cứu chè Bảo Lộc có nhiều giống chè chọn lọc giâm cành”
Tóm lại miền Bắc dùng chữ chè để chỉ cây trồng và sản phẩm chế biến của cây chè, còn miền Nam phân biệt chè là cây trồng và trà là sản phẩm chế biến từ cây chè.
Ngôn ngữ viết và nói về chữ trà dùng ở Việt Nam từ lâu đời, có nguồn gốc từ Trung Hoa, và đã trở thành một từ Việt phổ thông trong dân gian. Trà là âm Hán Việt, còn chè là âm Việt Hán (Diệp Đình Hoa – Hội thảo Văn hoá chè 1999, Hà nội).
Sự định dạng và định hình của chữ trà ở Trung Hoa.
Thời cổ đại Trung Hoa còn chưa có chữ viết. Dựa vào truyền thuyết và ngôn ngữ, các nhà khảo cổ đã xác định chữ trà (văn tự trà) có từ đời nhà Chu. Trong cuốn sách cổ Nhĩ Nha (Nói về cây cối) đời nhà Chu, do Dịch Lâm biên soạn, có ghi câu “ Giả – khổ trà “ (Giả là chè đắng). Âm đọc của chữ trên là Jỉa, gần giống âm chữ trà .
Trước Nhà Tần, ngôn ngữ các liệt quốc còn khác nhau và chưa thống nhất. Cùng một sự vật, nhưng tên gọi khác nhau, và chữ viết cũng không giống nhau. Trước nhà Đường, chữ Trà có tên gọi và 6 kiểu chữ viết khác nhau.
Bắt đầu từ thời kỳ Trung Đường trở về sau, tên gọi trà thường viết như sau đọc âm CHA. Trước đời nhà Đường một chữ có nhiều chức năng khác nhau, và một chữ cũng chỉ nhiều sự vật khác nhau. Vào khoảng 750 trước công nguyên, chữ trà có nhiều nghĩa và chỉ 3 vật khác nhau :
Trước thời kỳ Trung Đường, từ chữ trà cũ 11 nét bỏ bớt 1 nét ngang ở trên thành chữ trà 10 nét ngày nay. Theo cuốn Trà Kinh của Lục Vũ, chữ trà xuất hiện từ thời kỳ khai nguyên văn tự âm nghĩa (bắt đầu có chữ viết). Chữ trà hiện nay đã được định hình trên 1300 năm. Chữ Hán thuộc loại chữ tượng hình. Chữ trà 10 nét, bộ thảo đầu là biểu tượng của lá cây, phần giữa là tán cây , phần dưới là gốc và thân cây.
Trung Hoa là một nước rộng mênh mông, có nhiều dân tộc thiểu số; mỗi dân tộc có cách đọc và viết chữ trà, theo tập quán riêng. Người Hán cũng có chữ viết và tiếng đọc khác nhau theo từng vùng lãnh thổ (thổ ngữ, thổ âm). Ngày hay có tới 108 kiểu chữ trà của 10 nghệ nhân Vân Nam.
Hai luồng truyền bá âm “Trà” và “Tey” trên thế giới
Tên gọi của nước trà đều xuất phát từ Trung Hoa truyền đi theo 2 luồng sau đây :
Âm “CHA” lan truyền đầu tiên sang nước láng giềng phía Đông là Nhật Bản, dùng trực tiép chữ trà và cũng đọc là CHA. Sau đó lan truyền sang nước phía Tây là Ba tư (Iran) bằng “ Con đường tơ lụa thời Mác cô Pô Lô “, gọi là CHA, rồi sau biến âm thành SHAI của người ả rập ; tiếng Thổ nhĩ kỳ gọi là CHAY ; tiếng Bồ đào nha gọi là CHA ; tiếng Nga ở phía Bắc gọi là TRAI ; các nước Srilanka, Pakitxtan gọi là CHA, Việt Nam gọi là trà và chè.
Thổ âm Hạ môn TEY truyền bá ra nước ngoài vào thời kỳ cuối nhà Minh đầu nhà Thanh, khi các đội thương thuyền của phương Tây đến buôn bán trao đổi hàng hoá, từ những quốc gia viễn dương đến Trung Quốc.
Đầu tiên là các đội thương thuyền của Công ty miền Đông ấn Độ, năm 1664 đã cập bến cảng biển Hạ môn, thiết lập một Phòng thương mại, và gọi chè là TEY, theo thổ âm của vùng Hạ môn, tỉnh Phúc Kiến. Bắt đầu viết sang tiếng Anh là TEE, rồi lại biến thành THEE ; cuối cùng là chữ TEA ngày nay.
Từ đó âm TEA được phổ cập trên thế giới; tiếng Pháp là Thé; tiếng Đức là TEE; tiếng Tây ban nha là Té; tiếng Hà Lan là THEE; tiếng La tinh là THEA, tiếng Espéranto là TEO …
Nguồn gốc cây chè và chữ chè – trà trên thế giới ?
Từ – một đơn vị cơ bản của ngôn ngữ – không chỉ là một âm thanh cùng với thuộc tính vật lý, mà còn có ý nghĩa tín hiệu và định nghĩa sự vật của hiện thực khách quan. Từ chè – trà vừa mang nội dung khái quát hoá, vừa mang nội dung cụ thể hoá về cây chè. Cây chè có trước, rồi mới có từ chè – trà. Có tìm được nguồn gốc cây chè, mới rõ từ này xuất xứ ở đâu trước.
Đây là một vấn đề lịch sử – khoa học – văn hoá chè mà các học giả thế giới đã nghiên cứu tranh luận hơn 2 thế kỷ qua nhưng vẫn chưa kết luận. Đến nay đã công bố trên thế giới 5 thuyết về vùng nguyên sản cây chè, gồm thuyết Trung Hoa (Lục Vũ, 760 – Linné,1753), thuyết ấn Độ (Robert Bruce,1823), thuyết nhị nguyên (Cohen Stuart,1918), thuyết chiết trung (Đào Thừa Trân,1951) và thuyết Việt Nam (K.M. Djemukhatze,1976).
Qua các tư liệu từ thời vua Thần Nông cách đây hơn 5000 năm, thì nguồn gốc cây chè thế giới vẫn còn là một vấn đề thời sự, bí hiểm, mới mẻ, hấp dẫn vì có giá trị lịch sử – khoa học – văn hoá chưa đến hồi kết thúc, vẫn đang chờ đợi các học giả Việt Nam khám phá làm sáng tỏ !
Hà Nội, ngày 2 tháng 9 năm 2004
Ngôn ngữ viết và nói về chữ trà dùng ở Việt Nam từ lâu đời, có nguồn gốc từ Trung Hoa, và đã trở thành một từ Việt phổ thông trong dân gian. Trà là âm Hán Việt, còn chè là âm Việt Hán (Diệp Đình Hoa – Hội thảo Văn hoá chè 1999, Hà nội).
Trong Từ Điển Tiếng Việt của UBKHKT Việt Nam – 1994, chữ chè có các nghĩa :
- Một loại cây nhỏ, lá răng cưa, hoa màu trắng, trồng lấy lá, búp để làm đồ uống, như trồng chè, hái chè, giống chè …
- Sản phẩm chế biến của lá và búp cây chè, như chè bạng, chè búp, chè thái, chè tươi, chè bồm, chè đen, chè xanh, chè ô long …
- Một món ăn ngọt, nấu bằng đường mật với các chất bột, hạt, củ, như chè bà cốt, chè đỗ đen, chè đỗ xanh, chè con ong, chè củ mài, chè hạt lựu …
Trong Từ điển của Trung Tâm Ngôn Ngữ và Văn Hoá Việt Nam của Bộ GDĐT- 1998, chữ trà có các nghĩa :
- Búp chè đã sao, đã chế biến để pha nước uống, như uống trà, trà tàu, trà lá, tiệc trà, trà xanh, trà đen …
- Một loại cây cùng họ với cây chè, hoa đẹp, trắng hay hồng, trồng làm cây cảnh như cây trà mi …
- Một loại chim cỡ nhỏ, lông xanh biếc, mỏ thẳng nhọn, chuyên bắt cá.
- Loại cây trồng trên một diện tích đất, như trà lúa, đại trà ….
Còn trong tác phẩm văn chương thời xưa và nay, đã dùng chữ chè – trà như sau :
- Kinh đô Thăng Long có câu ca dao:“Uống chè mạn hảo, ngâm nôm Thuý Kiều
- Lê Quý Đôn viết trong Vân Đài loại ngữ (1773): “ … tỉnh Thanh Hoá sản xuất thứ chè ấy, mọc xanh om đầy rừng. Thổ dân hái lá chè đem về, giã nát để bán, gọi là chè Bạng.”
- Nguyễn Trãi: “ Sớm ba chén chè sen, mát rụột, nài chi vò đất hẩm hiu “
- Phạm Đình Hổ (1768-1839) trong Vũ trung tuỳ bút cũng viết: ” Kẻ thì ưa thanh cao, người thì thích hậu vị, kén hiệu trỏ tên, mua cho được chè ngon, bày khay chén ra nếm thử. Thậm chí có kẻ đặt tiền mua sẵn cho được hiệu chè Chính Sơn mà ung dung pha ấm chè tàu ra thưởng thức “
- Nguyễn Tuân trong Vang bóng một thời, lại dùng chữ trà để chỉ sản phẩm trong Chén trà sương: “ Sớm nào dạy cụ cũng ngâm một vài bài thơ. Giọng thật ấm, thật trong, cụ hay ngâm : Mai sớm một tuần trà, Canh khuya dăm chén rượu, Mỗi nhật cứ như thử, Lương y bất đáo gia.”
Thời nay, Miền Bắc vẫn dùng chữ chè chỉ cả cây trồng và sản phẩm “ Chắc chắn nước chè xanh là mặt hàng cốt yếu “ (Nguyễn chí Hoan) ; “ Văn hoá chè và Trà Đạo Việt Nam “ (Ngô Linh Ngọc) ; “ Viện nghiên cứu chè Phú Hộ có nhiều giống chè như Trung Du, Shan, Trung Quốc và ấn Độ “ ; “ VINATEA trong năm 1998 đã xuất khẩu 17.000 tấn chè đen, chè xanh “ ; “ Nguồn gốc cây chè và nghệ thuật pha uống chè “ (Minh Viễn)
Tại Việt Nam, trong đông y còn dùng các loại cây không thuộc Họ Chè, có tác dụng chữa bệnh gọi là chè thuốc, mà dân tộc nào cũng có. Chè thuốc pha theo kiểu pha chè, được nhân dân rất ưa thích. Ngày nay y dược Việt Nam, ngay cả các nước có công nghiệp hoá dược hiện đại, vẫn bào chế các loại chè thuốc này, như các loại chè giải nhiệt, chè an thần, chè chống cảm cúm ….
Còn ở miền Nam thì dùng chữ trà và chè, có phân biệt rõ rệt cây trồng và sản phẩm chế biến như “ Công Ty chè Lâm đồng có trà Rồng vàng “, “ Người dân miền Nam thích uống trà Tiến Đạt, Đỗ Hữu, Châm Anh “, “ Trạm nghiên cứu chè Bảo Lộc có nhiều giống chè chọn lọc giâm cành”
Tóm lại miền Bắc dùng chữ chè để chỉ cây trồng và sản phẩm chế biến của cây chè, còn miền Nam phân biệt chè là cây trồng và trà là sản phẩm chế biến từ cây chè.
Ngôn ngữ viết và nói về chữ trà dùng ở Việt Nam từ lâu đời, có nguồn gốc từ Trung Hoa, và đã trở thành một từ Việt phổ thông trong dân gian. Trà là âm Hán Việt, còn chè là âm Việt Hán (Diệp Đình Hoa – Hội thảo Văn hoá chè 1999, Hà nội).
Sự định dạng và định hình của chữ trà ở Trung Hoa.
Thời cổ đại Trung Hoa còn chưa có chữ viết. Dựa vào truyền thuyết và ngôn ngữ, các nhà khảo cổ đã xác định chữ trà (văn tự trà) có từ đời nhà Chu. Trong cuốn sách cổ Nhĩ Nha (Nói về cây cối) đời nhà Chu, do Dịch Lâm biên soạn, có ghi câu “ Giả – khổ trà “ (Giả là chè đắng). Âm đọc của chữ trên là Jỉa, gần giống âm chữ trà .
Trước Nhà Tần, ngôn ngữ các liệt quốc còn khác nhau và chưa thống nhất. Cùng một sự vật, nhưng tên gọi khác nhau, và chữ viết cũng không giống nhau. Trước nhà Đường, chữ Trà có tên gọi và 6 kiểu chữ viết khác nhau.
Bắt đầu từ thời kỳ Trung Đường trở về sau, tên gọi trà thường viết như sau đọc âm CHA. Trước đời nhà Đường một chữ có nhiều chức năng khác nhau, và một chữ cũng chỉ nhiều sự vật khác nhau. Vào khoảng 750 trước công nguyên, chữ trà có nhiều nghĩa và chỉ 3 vật khác nhau :
- Một thứ nước uống
- Một loại cây rau đắng
- Hoa trắng của một loại cây cỏ
Trước thời kỳ Trung Đường, từ chữ trà cũ 11 nét bỏ bớt 1 nét ngang ở trên thành chữ trà 10 nét ngày nay. Theo cuốn Trà Kinh của Lục Vũ, chữ trà xuất hiện từ thời kỳ khai nguyên văn tự âm nghĩa (bắt đầu có chữ viết). Chữ trà hiện nay đã được định hình trên 1300 năm. Chữ Hán thuộc loại chữ tượng hình. Chữ trà 10 nét, bộ thảo đầu là biểu tượng của lá cây, phần giữa là tán cây , phần dưới là gốc và thân cây.
Trung Hoa là một nước rộng mênh mông, có nhiều dân tộc thiểu số; mỗi dân tộc có cách đọc và viết chữ trà, theo tập quán riêng. Người Hán cũng có chữ viết và tiếng đọc khác nhau theo từng vùng lãnh thổ (thổ ngữ, thổ âm). Ngày hay có tới 108 kiểu chữ trà của 10 nghệ nhân Vân Nam.
Hai luồng truyền bá âm “Trà” và “Tey” trên thế giới
Tên gọi của nước trà đều xuất phát từ Trung Hoa truyền đi theo 2 luồng sau đây :
- âm Hán phổ thông CHA của Bắc Kinh
- thổ âm địa phương TEY của vùng Hạ môn, Phúc Kiến
Âm “CHA” lan truyền đầu tiên sang nước láng giềng phía Đông là Nhật Bản, dùng trực tiép chữ trà và cũng đọc là CHA. Sau đó lan truyền sang nước phía Tây là Ba tư (Iran) bằng “ Con đường tơ lụa thời Mác cô Pô Lô “, gọi là CHA, rồi sau biến âm thành SHAI của người ả rập ; tiếng Thổ nhĩ kỳ gọi là CHAY ; tiếng Bồ đào nha gọi là CHA ; tiếng Nga ở phía Bắc gọi là TRAI ; các nước Srilanka, Pakitxtan gọi là CHA, Việt Nam gọi là trà và chè.
Thổ âm Hạ môn TEY truyền bá ra nước ngoài vào thời kỳ cuối nhà Minh đầu nhà Thanh, khi các đội thương thuyền của phương Tây đến buôn bán trao đổi hàng hoá, từ những quốc gia viễn dương đến Trung Quốc.
Đầu tiên là các đội thương thuyền của Công ty miền Đông ấn Độ, năm 1664 đã cập bến cảng biển Hạ môn, thiết lập một Phòng thương mại, và gọi chè là TEY, theo thổ âm của vùng Hạ môn, tỉnh Phúc Kiến. Bắt đầu viết sang tiếng Anh là TEE, rồi lại biến thành THEE ; cuối cùng là chữ TEA ngày nay.
Từ đó âm TEA được phổ cập trên thế giới; tiếng Pháp là Thé; tiếng Đức là TEE; tiếng Tây ban nha là Té; tiếng Hà Lan là THEE; tiếng La tinh là THEA, tiếng Espéranto là TEO …
Nguồn gốc cây chè và chữ chè – trà trên thế giới ?
Từ – một đơn vị cơ bản của ngôn ngữ – không chỉ là một âm thanh cùng với thuộc tính vật lý, mà còn có ý nghĩa tín hiệu và định nghĩa sự vật của hiện thực khách quan. Từ chè – trà vừa mang nội dung khái quát hoá, vừa mang nội dung cụ thể hoá về cây chè. Cây chè có trước, rồi mới có từ chè – trà. Có tìm được nguồn gốc cây chè, mới rõ từ này xuất xứ ở đâu trước.
Đây là một vấn đề lịch sử – khoa học – văn hoá chè mà các học giả thế giới đã nghiên cứu tranh luận hơn 2 thế kỷ qua nhưng vẫn chưa kết luận. Đến nay đã công bố trên thế giới 5 thuyết về vùng nguyên sản cây chè, gồm thuyết Trung Hoa (Lục Vũ, 760 – Linné,1753), thuyết ấn Độ (Robert Bruce,1823), thuyết nhị nguyên (Cohen Stuart,1918), thuyết chiết trung (Đào Thừa Trân,1951) và thuyết Việt Nam (K.M. Djemukhatze,1976).
Qua các tư liệu từ thời vua Thần Nông cách đây hơn 5000 năm, thì nguồn gốc cây chè thế giới vẫn còn là một vấn đề thời sự, bí hiểm, mới mẻ, hấp dẫn vì có giá trị lịch sử – khoa học – văn hoá chưa đến hồi kết thúc, vẫn đang chờ đợi các học giả Việt Nam khám phá làm sáng tỏ !
Hà Nội, ngày 2 tháng 9 năm 2004
PHONG CÁCH UỐNG TRÀ VIỆT NAM

Người Nhật có lối uống trà rất khác biệt với các dân tộc khác, khi uống trà họ phải tuân giữ một vài nghi thức nên gọi là Trà đạo. Ðối với Trung Hoa và Việt Nam, lối uống trà chỉ được coi như là nghệ thuật mà thôi, nghệ thuật thì không cần phải khuôn sáo hay công thức.


Người Nhật có lối uống trà rất khác biệt với các dân tộc khác, khi uống trà họ phải tuân giữ một vài nghi thức nên gọi là Trà đạo. Ðối với Trung Hoa và Việt Nam, lối uống trà chỉ được coi như là nghệ thuật mà thôi, nghệ thuật thì không cần phải khuôn sáo hay công thức.
Tại sao Việt Nam không có một nền văn hóa trà để sánh với Trà Đạo Nhật Bản, với Văn hóa Trà Trung Hoa, với Trà Buổi chiều của Anh Quốc? Vì trà Việt giản dị, gần gũi, nhưng cũng rất đỗi tinh tế như tâm hồn người Việt nên nó không là một cái đạo như Trà Đạo Nhật Bản, không quá cầu kỳ và huyền bí như Trà Trung Hoa, cũng không quá thực dụng như trà phương Tây.
Ở Việt Nam, tục uống trà có từ rất lâu đời. Người Việt Nam biết đến trà sớm hơn nhiều so với các nước. Theo một tài liệu khảo cứu của Ủy ban khoa học xã hội thì người ta đã tìm thấy những dấu tích của lá và cây chè hóa thạch ở vùng đất tổ Hùng Vương (Phú Thọ). Xa hơn nữa, họ còn nghi ngờ cây chè đã có từ thời kỳ đồ đá sơn vi (văn hóa Hòa Bình). Cho đến nay, ở vùng Suối Giàng (Văn Chấn - Nghĩa Lộ - Yên Bái), trên độ cao 1.000 m so với mặt biển, có một rừng chè hoang khoảng 40.000 cây chè dại, trong đó có một cây chè cổ thụ lớn nhất, ba người ôm không xuể. Ðã có những kết luận khoa học trong và ngoài nước khẳng định rằng: Việt Nam là một trong những "chiếc nôi" cổ nhất của cây chè thế giới.
Thưởng thức một chén trà mang Phong Cách Trà Việt là việc mang nhiều ý nghĩa. Màu nước vàng sánh trong xanh, hương trà, hương hoa tự nhiên là hình ảnh Việt Nam với rừng vàng, biển bạc, tài nguyên phong phú. Vị đắng chát gợi lên nỗi vất vả, cần lao của những người làm trà truyền thống bao đời nay. Hậu vị ngọt mát của trà chính là tâm hồn người Việt giàu tình, giàu nghĩa, có thủy, có trung. Vì vậy mà chén trà cho con người gần điều thiện, xa lánh điều ác, đoàn kết hơn, chia xẻ hơn.
Nghệ thuật uống trà phản ánh phong cách văn hoá ứng xử của người Việt Nam. Trong gia đình truyền thống, người nhỏ pha trà mời người lớn, phụ nữ pha trà mời các ông. Người ta có thể uống trà trong yên lặng suy ngẫm như để giao hoà với thiên nhiên.
Theo truyền tụng, hình thức uống trà được khởi nguồn từ các chùa chiền gọi là Thiền Trà. Các nhà Sư thường uống trà trước các thời công phu sớm chiều. Cuộc đời trần tục nhiều hệ lụy, trà giúp cho con người tỉnh được mộng trần, rửa được lòng tục, xoá tan cảm giác tĩnh mịch chốn thiền môn. Ngày nay chỉ còn ngôi chùa Từ Liêm ngoài Bắc là giữ được nghi thức Thiền Trà này
Trà được ưa chuộng trong giới quý tộc, trong cung đình như là một bằng chứng của sự quyền quý, để phân biệt với giai cấp thứ dân trong xã hội phong kiến.
Kế đến, trà chinh phục các tầng lớp trung lưu, nhất là các nhà Nho, các chú học trò "dài lưng tốn vải ăn no lại nằm", mượn bộ ấm trà để bàn luận văn chương thi phú, để tiêu khiển giải trí sau những giờ điên đầu vật vã với tứ thư ngũ kinh.
Do đó, dần dà uống trà là một lối tiêu khiển thanh đạm được tất cả mọi giới ưa chuộng. Pha trà mời khách cũng phải tốn nhiều công phu hàm dưỡng và trở thành một nghi thức. Trà phong Việt Nam thật là trân trọng ở cách dâng mời nhiều ngụ ý. Dù mưa nắng, sớm chiều, buồn vui khách không thể từ chối một chung trà trong khi gia chủ trang trọng hai tay dâng mời.
Mời trà là một hành vi biểu hiện phong độ thanh nhã và hiếu khách của hầu hết các gia đình Việt Nam. Kỵ nhất là tiếp khách bằng những tách trà còn đóng ngấn hoen ố nước trà cũ. Cũng không bao giờ tiếp khách bằng một ấm nước trà nguội.
Uống trà cũng phải uống từ ngụm nhỏ, để cảm nhận hết cái dư vị thơm ngon của trà, cái hơi ấm cuả chén trà tỏa vào hai bàn tay ấp ủ nâng chén trong muà đông tháng giá, làm ấm lòng viễn khách. Uống trà là một cách biểu thị sự tâm đắc, trình độ văn hoá và cảm tình cùng người đối thoại. Trong ấm trà ngon, người cùng uống tâm đầu ý hợp, dưới ánh trăng thanh gió mát, ngắm khung cảnh tĩnh mịch của núi rừng mà luận bàn thế sự thì không còn gì thú vị hơn nữa.
Ngoài các lối uống trà đơn giản đến cầu kỳ trong các gia đình Việt Nam, các cụ ngày xưa còn có những hình thức hội trà. Ðó là uống trà thưởng xuân, uống trà thưởng hoa, uống trà ngũ hương. Hội trà là tụ họp những người bạn sành điệu cùng chung vui trong các dịp đặc biệt hoặc có hộp trà ngon, hay có một chậu hoa quý hiếm trổ bông, hay trong nhà có giỗ chạp.
Tại sao Việt Nam không có một nền văn hóa trà để sánh với Trà Đạo Nhật Bản, với Văn hóa Trà Trung Hoa, với Trà Buổi chiều của Anh Quốc? Vì trà Việt giản dị, gần gũi, nhưng cũng rất đỗi tinh tế như tâm hồn người Việt nên nó không là một cái đạo như Trà Đạo Nhật Bản, không quá cầu kỳ và huyền bí như Trà Trung Hoa, cũng không quá thực dụng như trà phương Tây.
Ở Việt Nam, tục uống trà có từ rất lâu đời. Người Việt Nam biết đến trà sớm hơn nhiều so với các nước. Theo một tài liệu khảo cứu của Ủy ban khoa học xã hội thì người ta đã tìm thấy những dấu tích của lá và cây chè hóa thạch ở vùng đất tổ Hùng Vương (Phú Thọ). Xa hơn nữa, họ còn nghi ngờ cây chè đã có từ thời kỳ đồ đá sơn vi (văn hóa Hòa Bình). Cho đến nay, ở vùng Suối Giàng (Văn Chấn - Nghĩa Lộ - Yên Bái), trên độ cao 1.000 m so với mặt biển, có một rừng chè hoang khoảng 40.000 cây chè dại, trong đó có một cây chè cổ thụ lớn nhất, ba người ôm không xuể. Ðã có những kết luận khoa học trong và ngoài nước khẳng định rằng: Việt Nam là một trong những "chiếc nôi" cổ nhất của cây chè thế giới.

Nghệ thuật uống trà phản ánh phong cách văn hoá ứng xử của người Việt Nam. Trong gia đình truyền thống, người nhỏ pha trà mời người lớn, phụ nữ pha trà mời các ông. Người ta có thể uống trà trong yên lặng suy ngẫm như để giao hoà với thiên nhiên.
Theo truyền tụng, hình thức uống trà được khởi nguồn từ các chùa chiền gọi là Thiền Trà. Các nhà Sư thường uống trà trước các thời công phu sớm chiều. Cuộc đời trần tục nhiều hệ lụy, trà giúp cho con người tỉnh được mộng trần, rửa được lòng tục, xoá tan cảm giác tĩnh mịch chốn thiền môn. Ngày nay chỉ còn ngôi chùa Từ Liêm ngoài Bắc là giữ được nghi thức Thiền Trà này
Trà được ưa chuộng trong giới quý tộc, trong cung đình như là một bằng chứng của sự quyền quý, để phân biệt với giai cấp thứ dân trong xã hội phong kiến.
Kế đến, trà chinh phục các tầng lớp trung lưu, nhất là các nhà Nho, các chú học trò "dài lưng tốn vải ăn no lại nằm", mượn bộ ấm trà để bàn luận văn chương thi phú, để tiêu khiển giải trí sau những giờ điên đầu vật vã với tứ thư ngũ kinh.
Do đó, dần dà uống trà là một lối tiêu khiển thanh đạm được tất cả mọi giới ưa chuộng. Pha trà mời khách cũng phải tốn nhiều công phu hàm dưỡng và trở thành một nghi thức. Trà phong Việt Nam thật là trân trọng ở cách dâng mời nhiều ngụ ý. Dù mưa nắng, sớm chiều, buồn vui khách không thể từ chối một chung trà trong khi gia chủ trang trọng hai tay dâng mời.
Mời trà là một hành vi biểu hiện phong độ thanh nhã và hiếu khách của hầu hết các gia đình Việt Nam. Kỵ nhất là tiếp khách bằng những tách trà còn đóng ngấn hoen ố nước trà cũ. Cũng không bao giờ tiếp khách bằng một ấm nước trà nguội.
Uống trà cũng phải uống từ ngụm nhỏ, để cảm nhận hết cái dư vị thơm ngon của trà, cái hơi ấm cuả chén trà tỏa vào hai bàn tay ấp ủ nâng chén trong muà đông tháng giá, làm ấm lòng viễn khách. Uống trà là một cách biểu thị sự tâm đắc, trình độ văn hoá và cảm tình cùng người đối thoại. Trong ấm trà ngon, người cùng uống tâm đầu ý hợp, dưới ánh trăng thanh gió mát, ngắm khung cảnh tĩnh mịch của núi rừng mà luận bàn thế sự thì không còn gì thú vị hơn nữa.
Ngoài các lối uống trà đơn giản đến cầu kỳ trong các gia đình Việt Nam, các cụ ngày xưa còn có những hình thức hội trà. Ðó là uống trà thưởng xuân, uống trà thưởng hoa, uống trà ngũ hương. Hội trà là tụ họp những người bạn sành điệu cùng chung vui trong các dịp đặc biệt hoặc có hộp trà ngon, hay có một chậu hoa quý hiếm trổ bông, hay trong nhà có giỗ chạp.
Sơ lược nguồn gốc cây trà
Cây chè có tên khoa học là Camellia sinensis là loài cây mà lá và chồi của chúng được sử dụng để sản xuất chè (trà - đừng nhầm với cây hoa trà). Tên gọi sinensis có nghĩa là "Trung Quốc" trong tiếng Latinh. Các danh pháp khoa học cũ còn có Thea bohea và Thea viridis.
Camellia sinensis có nguồn gốc ở khu vực Đông Nam Á, nhưng ngày nay nó được trồng phổ biến ở nhiều nơi trên thế giới, trong các khu vực nhiệt đới và cận nhiệt đới. Nó là loại cây xanh lưu niên mọc thành bụi hoặc các cây nhỏ, thông thường được xén tỉa để thấp hơn 2 mét (6 ft) khi được trồng để lấy lá. Nó có rễ cái dài. Hoa của nó màu trắng ánh vàng, đường kính từ 2,5–4 cm, với 7 - 8 cánh hoa. Hạt của nó có thể ép để lấy dầu.

Camellia sinensis có nguồn gốc ở khu vực Đông Nam Á, nhưng ngày nay nó được trồng phổ biến ở nhiều nơi trên thế giới, trong các khu vực nhiệt đới và cận nhiệt đới. Nó là loại cây xanh lưu niên mọc thành bụi hoặc các cây nhỏ, thông thường được xén tỉa để thấp hơn 2 mét (6 ft) khi được trồng để lấy lá. Nó có rễ cái dài. Hoa của nó màu trắng ánh vàng, đường kính từ 2,5–4 cm, với 7 - 8 cánh hoa. Hạt của nó có thể ép để lấy dầu.

Cây chè có tên khoa học là Camellia sinensis là loài cây mà lá và chồi của chúng được sử dụng để sản xuất chè (trà - đừng nhầm với cây hoa trà). Tên gọi sinensis có nghĩa là "Trung Quốc" trong tiếng Latinh. Các danh pháp khoa học cũ còn có Thea bohea và Thea viridis.
Camellia sinensis có nguồn gốc ở khu vực Đông Nam Á, nhưng ngày nay nó được trồng phổ biến ở nhiều nơi trên thế giới, trong các khu vực nhiệt đới và cận nhiệt đới. Nó là loại cây xanh lưu niên mọc thành bụi hoặc các cây nhỏ, thông thường được xén tỉa để thấp hơn 2 mét (6 ft) khi được trồng để lấy lá. Nó có rễ cái dài. Hoa của nó màu trắng ánh vàng, đường kính từ 2,5–4 cm, với 7 - 8 cánh hoa. Hạt của nó có thể ép để lấy dầu.
Chè xanh, chè ô long và chè đen tất cả đều được chế biến từ loài này, nhưng được chế biến ở các mức độ ôxi hóa khác nhau.
Camellia sinensis
Lá của chúng dài từ 4–15 cm và rộng từ 2–5 cm. Lá tươi chứa khoảng 4% caffein. Lá non và còn các lá có xanh lục nhạt được thu hoach để sản xuất chè khi mặt bên dưới của chúng còn các sợi lông tơ ngắn màu trắng. Các lá già có màu lục sẫm. Các độ tuổi khác nhau của lá chè tạo ra các sản phẩm chè khác nhau về chất lượng, do thành phần hóa học trong các lá này là khác nhau. Thông thường, chỉ có lá chồi và 2 đến 3 lá mới mọc gần thời gian đó được thu hoạch để chế biến. Việc thu hoạch thủ công bằng tay diễn ra đều đặn sau khoảng 1 đến 2 tuần.
Một số các biến thể khác nhau của C. sinensis được sử dụng để sản xuất chè:
Biến thể Assam
Phần lớn chè được sản xuất từ biến thể này (đôi khi nó được gọi là C. sinensis assamica hay C. assamica). Nó là loại cây nhỏ (thân đơn) với lá to. Trong tự nhiên, nó cao tới 6 - 20 mét (20–65 ft); trong các khu vực trồng để lấy lá người ta xén tỉa nó xuống chỉ còn cao trên hông người. Ở những vùng đất trũng, yêu cầu của nó là có độ ẩm cao (mưa nhiều) nhưng thoát nước tốt. Những cây trồng này không có khả năng chống chịu được điều kiện quá nóng. Cây chè Assam được phát hiện năm 1823 (mặc dù nó đã được người dân địa phương sử dụng làm đồ uống từ trước đó) là một trong hai cây chè gốc. Tất cả các cây chè Assam và phần lớn chè Ceylon (Tích Lan, nay là Sri Lanka) có nguồn gốc từ cây này. Chè Assam tạo ra hương vị ngọt của đồ uống, không giống như hương vị của các loại chè Trung Hoa khác.
Biến thể Trung Quốc
Chè Trung Quốc (đôi khi gọi là C. sinensis sinensis) là loài cây lá nhỏ, nhiều thân mọc thành bụi rậm cao tới 3 mét. Đây là loại chè đầu tiên được phát hiện, ghi chép lại và sử dụng để sản xuất chè có từ hơn 3000 năm trước, nó dùng để sản xuất nhiều loại chè nổi tiếng.
Biến thể Cam pu chia
Chè Cam pu chia đôi khi được gọi là C. sinensis parvifolia. Lá của chúng về kích thước nằm giữa kích thước của lá chè Assam và lá chè Trung Quốc; nó là một loại cây nhỏ với một số thân. Đôi khi người ta coi biến thể này là sản phẩm lai ghép của chè Assam và Trung Quốc.
Camellia sinensis có nguồn gốc ở khu vực Đông Nam Á, nhưng ngày nay nó được trồng phổ biến ở nhiều nơi trên thế giới, trong các khu vực nhiệt đới và cận nhiệt đới. Nó là loại cây xanh lưu niên mọc thành bụi hoặc các cây nhỏ, thông thường được xén tỉa để thấp hơn 2 mét (6 ft) khi được trồng để lấy lá. Nó có rễ cái dài. Hoa của nó màu trắng ánh vàng, đường kính từ 2,5–4 cm, với 7 - 8 cánh hoa. Hạt của nó có thể ép để lấy dầu.
Chè xanh, chè ô long và chè đen tất cả đều được chế biến từ loài này, nhưng được chế biến ở các mức độ ôxi hóa khác nhau.
Camellia sinensis
Lá của chúng dài từ 4–15 cm và rộng từ 2–5 cm. Lá tươi chứa khoảng 4% caffein. Lá non và còn các lá có xanh lục nhạt được thu hoach để sản xuất chè khi mặt bên dưới của chúng còn các sợi lông tơ ngắn màu trắng. Các lá già có màu lục sẫm. Các độ tuổi khác nhau của lá chè tạo ra các sản phẩm chè khác nhau về chất lượng, do thành phần hóa học trong các lá này là khác nhau. Thông thường, chỉ có lá chồi và 2 đến 3 lá mới mọc gần thời gian đó được thu hoạch để chế biến. Việc thu hoạch thủ công bằng tay diễn ra đều đặn sau khoảng 1 đến 2 tuần.
Một số các biến thể khác nhau của C. sinensis được sử dụng để sản xuất chè:
Biến thể Assam
Phần lớn chè được sản xuất từ biến thể này (đôi khi nó được gọi là C. sinensis assamica hay C. assamica). Nó là loại cây nhỏ (thân đơn) với lá to. Trong tự nhiên, nó cao tới 6 - 20 mét (20–65 ft); trong các khu vực trồng để lấy lá người ta xén tỉa nó xuống chỉ còn cao trên hông người. Ở những vùng đất trũng, yêu cầu của nó là có độ ẩm cao (mưa nhiều) nhưng thoát nước tốt. Những cây trồng này không có khả năng chống chịu được điều kiện quá nóng. Cây chè Assam được phát hiện năm 1823 (mặc dù nó đã được người dân địa phương sử dụng làm đồ uống từ trước đó) là một trong hai cây chè gốc. Tất cả các cây chè Assam và phần lớn chè Ceylon (Tích Lan, nay là Sri Lanka) có nguồn gốc từ cây này. Chè Assam tạo ra hương vị ngọt của đồ uống, không giống như hương vị của các loại chè Trung Hoa khác.
Biến thể Trung Quốc
Chè Trung Quốc (đôi khi gọi là C. sinensis sinensis) là loài cây lá nhỏ, nhiều thân mọc thành bụi rậm cao tới 3 mét. Đây là loại chè đầu tiên được phát hiện, ghi chép lại và sử dụng để sản xuất chè có từ hơn 3000 năm trước, nó dùng để sản xuất nhiều loại chè nổi tiếng.
Biến thể Cam pu chia
Chè Cam pu chia đôi khi được gọi là C. sinensis parvifolia. Lá của chúng về kích thước nằm giữa kích thước của lá chè Assam và lá chè Trung Quốc; nó là một loại cây nhỏ với một số thân. Đôi khi người ta coi biến thể này là sản phẩm lai ghép của chè Assam và Trung Quốc.
Thuật Uống Trà
Trong lịch sử nhân loại, có khá nhiều khám phá hoặc phát minh lớn lao bắt nguồn từ sự tình cờ. Truyền thuyết Trung Hoa kể rằng trong một dịp tuần thú, vua Thần Nông (2700 ÂL) tìm ra công hiệu của trà, khi một số lá của cây này rơi vào nồi nước đang nấu. Không mấy chốc, nước trong nồi ngả màu và tỏa mùi thơm. Là một người có đầu óc khoa học, vua Thần Nông nếm thử và nhận thấy nước này có hương vị thần diệu. Từ đó, ngài truyền dạy dân Trung Hoa cách dùng trà. Lại có truyền thuyết cho rằng trong một dịp ngẫu nhiên, vua Thần Nông nhai các lá trà thì nhận thấy chúng có khả năng xoa dịu sự công phạt của nhiều chất độc đang hoành hành trong cơ thể ngài. Những chất độc này đến từ các thảo mộc mọc trong thiên nhiên, do ngài nếm thử nhiều năm tháng trước đây.


Dẫn nhập
Trong lịch sử nhân loại, có khá nhiều khám phá hoặc phát minh lớn lao bắt nguồn từ sự tình cờ. Truyền thuyết Trung Hoa kể rằng trong một dịp tuần thú, vua Thần Nông (2700 ÂL) tìm ra công hiệu của trà, khi một số lá của cây này rơi vào nồi nước đang nấu. Không mấy chốc, nước trong nồi ngả màu và tỏa mùi thơm. Là một người có đầu óc khoa học, vua Thần Nông nếm thử và nhận thấy nước này có hương vị thần diệu. Từ đó, ngài truyền dạy dân Trung Hoa cách dùng trà. Lại có truyền thuyết cho rằng trong một dịp ngẫu nhiên, vua Thần Nông nhai các lá trà thì nhận thấy chúng có khả năng xoa dịu sự công phạt của nhiều chất độc đang hoành hành trong cơ thể ngài. Những chất độc này đến từ các thảo mộc mọc trong thiên nhiên, do ngài nếm thử nhiều năm tháng trước đây.
Cho đến nay, người Tây phương và Đông phương vẫn còn có sự cách biệt khá lớn lao về sự cảm nhận và cách thưởng thức trà. Đối với nhiều người Tây phương, trà được dùng thuần túy như một thức uống. Đối với người Đông phương, trà không những là một thức uống, mà qua cách uống nó, người ta có dịp di dưỡng tinh thần bất cứ lúc nào trong một ngày. Muốn thấy được tầm mức nghiêm trọng của việc pha trà, ta hãy nghe lời khuyến cáo của một nhà văn Trung Hoa đời Tống: „Có ba điều ân hận trong cuộc đời: Làm hư hại tuổi thanh xuân qua sự giáo dục sai lạc, làm giảm giá trị của tác phẩm nghệ thuật qua những lời khen nhảm, và sự phí phạn trà ngon qua cách pha trà kém cỏi“ (trong Okakura 1964, tr.10).
Chính vì trà có một vai trò quan trọng trong sinh hoạt tinh thần Đông phương, nên qua nhiều thế kỷ,nghệ thuật uống trà đã được nhiều bậc thức giả, cũng như những kẻ uống trà sành điệu nghiên cứu và tán dương. Tuy vậy, một vài biến cố quan trọng về trà có thể kể đến như việc Lục Vũ (Lu Yu) đời Đường để lại cho hậu thế quyển 'Trà Kinh' vào thế kỷ thứ 8. Sau khi tác phẩm này ra đời, việc uống trà được xem trọng như một ngành nghệ thuật, thay vì thuần túy như một thức uống của dân gian. Vào cuối thế kỷ 12, thiền sư Nhật Eisai Zenji viết một luận thuyết cổ vũ việc uống trà gồm hai tập sách mang tựa đề 'Kissa-yojo-ki' (nghĩa: 'Chú Giải về Dược Tính của Trà'). Luận thuyết này đã gây một ảnh hưởng khá lớn lao vào xã hội Nhật trong thời Kamakura (1185-1333). Sau đó ít lâu, Trà đạo dần dà thành hình do kết quả của nhiều thuận duyên và công sức của một số thiền sư Nhật. Okakura, một nhà Đông phương học, viết một tiểu luận Anh ngữ về trà tựa đề 'The Book of Tea' năm 1906. Cho đến nay, tác phẩm này được in lại rất nhiều lần, qua nhiều ngoại ngữ khác nhau. Tại nước ta, nghệ thuật uống trà thanh tao của người xưa bàng bạc trong một số tác phẩm văn học như 'Vũ Trung Tùy Bút' của Phạm Đình Hổ (1768-1839), 'Vang Bóng Một Thời' của Nguyễn Tuân, và 'Hương Trà' của Đỗ Trọng Huề. Các tác giả cho thấy các nhà Nho, dù có một cuộc sống đơn giản mấy đi chăng nữa, vẫn không thể thiếu trà Tàu trong cuộc sống thường nhật. Trà Tàu giúp các nhà Nho có thêm chất liệu cho cuộc sống tinh thần, bù đắp cho nếp sống thanh đạm:
Họ lịch sự như tiên, phú quý như giời,
Quất con ngựa rong chơi ngoài ngõ liễu.
Ta trồng cỏ đầy vườn, vãi hoa đầy đất,
Gọi hề đồng pha nước trước hiên mai.
(Thơ Hải Văn, trong Nguyễn Tuân 1962, tr.54)
Trong nhiều năm gần đây, có một số công trình nghiên cứu về trà của các khoa học gia, khám phá ra những lợi ích rất bất ngờ về trà. Từ những đặc tính y học của trà, nhiều người bất kể sống trong vùng văn hóa nào, bắt đầu sử dụng trà như một món uống hàng ngày để phòng chống một số ung thư và bệnh tật. Tuy nhiên, thật cần thiết để hiểu thêm nhiều về trà và nghệ thuật uống trà của cổ nhân Đông phương, vì lẽ những kiến thức này có thể giúp chúng ta hiểu rõ những lợi ích tinh thần mà trà có thể đem lại cho người uống. Trong suốt bài viết, từ ngữ 'Đông phương' mà tôi sử dụng gồm Trung Hoa và một số quốc gia từng chịu ảnh hưởng sâu đậm nền văn hóa của nước này như Nhật Bản và Việt Nam. Tôi cũng sẽ trình bày về nguồn gốc, các thành tố cần thiết và cung cách pha trà trong nghệ thuật uống trà, và sau cùng, sự liên hệ giữa trà và nghệ thuật dưỡng sinh của người xưa.
Tinh hoa và sự phát triển của thuật uống trà
I. NGUỒN GỐC TRÀ
II. CÁC THÀNH TỐ CẦN THIẾT TRONG NGHỆ THUẬT UỐNG TRÀ
Bên cạnh các dữ kiện lịch sử, có khá nhiều giai thoại về nghệ thuật và cung cách uống trà của người xưa được ghi nhận lại trong các tác phẩm văn học. Mặc dù tính thực của giai thoại luôn là một nghi vấn, tôi vẫn sử dụng các giai thoại đó đây từ nhiều thời đại như một nguồn tài liệu bổ túc. Lục Vũ cho rằng có chín điều khó trong thuật uống trà: Một là sản xuất, hai là biết phân biệt và lựa chọn, ba là có đủ các thiết bị trong việc pha trà, bốn là lửa, năm là nước, sáu là chế biến, bẩy là nghiền nhuyễn (trong trường hợp trà bột vào đời Đường), tám là pha trà, và chín, thưởng thức trà (Lu Yu 1974, tr.118). Trong số chín điều khó vừa kể, việc sản xuất, chế biến và nghiền nhuyễn trà cho thấy rõ cách thức uống trà bột trong thời Lục Vũ. Trong phạm vi bài viết này, tôi sẽ đề cập đến các thành tố cần thiết trong nghệ thuật uống trà như loại trà, bình và chén trà, lửa, vật liệu để đun nước, nước và khay trà. Tôi cũng sẽ trình bày về dược tính và dưỡng sinh tính của trà.
Trong lịch sử nhân loại, có khá nhiều khám phá hoặc phát minh lớn lao bắt nguồn từ sự tình cờ. Truyền thuyết Trung Hoa kể rằng trong một dịp tuần thú, vua Thần Nông (2700 ÂL) tìm ra công hiệu của trà, khi một số lá của cây này rơi vào nồi nước đang nấu. Không mấy chốc, nước trong nồi ngả màu và tỏa mùi thơm. Là một người có đầu óc khoa học, vua Thần Nông nếm thử và nhận thấy nước này có hương vị thần diệu. Từ đó, ngài truyền dạy dân Trung Hoa cách dùng trà. Lại có truyền thuyết cho rằng trong một dịp ngẫu nhiên, vua Thần Nông nhai các lá trà thì nhận thấy chúng có khả năng xoa dịu sự công phạt của nhiều chất độc đang hoành hành trong cơ thể ngài. Những chất độc này đến từ các thảo mộc mọc trong thiên nhiên, do ngài nếm thử nhiều năm tháng trước đây.
Cho đến nay, người Tây phương và Đông phương vẫn còn có sự cách biệt khá lớn lao về sự cảm nhận và cách thưởng thức trà. Đối với nhiều người Tây phương, trà được dùng thuần túy như một thức uống. Đối với người Đông phương, trà không những là một thức uống, mà qua cách uống nó, người ta có dịp di dưỡng tinh thần bất cứ lúc nào trong một ngày. Muốn thấy được tầm mức nghiêm trọng của việc pha trà, ta hãy nghe lời khuyến cáo của một nhà văn Trung Hoa đời Tống: „Có ba điều ân hận trong cuộc đời: Làm hư hại tuổi thanh xuân qua sự giáo dục sai lạc, làm giảm giá trị của tác phẩm nghệ thuật qua những lời khen nhảm, và sự phí phạn trà ngon qua cách pha trà kém cỏi“ (trong Okakura 1964, tr.10).
Chính vì trà có một vai trò quan trọng trong sinh hoạt tinh thần Đông phương, nên qua nhiều thế kỷ,nghệ thuật uống trà đã được nhiều bậc thức giả, cũng như những kẻ uống trà sành điệu nghiên cứu và tán dương. Tuy vậy, một vài biến cố quan trọng về trà có thể kể đến như việc Lục Vũ (Lu Yu) đời Đường để lại cho hậu thế quyển 'Trà Kinh' vào thế kỷ thứ 8. Sau khi tác phẩm này ra đời, việc uống trà được xem trọng như một ngành nghệ thuật, thay vì thuần túy như một thức uống của dân gian. Vào cuối thế kỷ 12, thiền sư Nhật Eisai Zenji viết một luận thuyết cổ vũ việc uống trà gồm hai tập sách mang tựa đề 'Kissa-yojo-ki' (nghĩa: 'Chú Giải về Dược Tính của Trà'). Luận thuyết này đã gây một ảnh hưởng khá lớn lao vào xã hội Nhật trong thời Kamakura (1185-1333). Sau đó ít lâu, Trà đạo dần dà thành hình do kết quả của nhiều thuận duyên và công sức của một số thiền sư Nhật. Okakura, một nhà Đông phương học, viết một tiểu luận Anh ngữ về trà tựa đề 'The Book of Tea' năm 1906. Cho đến nay, tác phẩm này được in lại rất nhiều lần, qua nhiều ngoại ngữ khác nhau. Tại nước ta, nghệ thuật uống trà thanh tao của người xưa bàng bạc trong một số tác phẩm văn học như 'Vũ Trung Tùy Bút' của Phạm Đình Hổ (1768-1839), 'Vang Bóng Một Thời' của Nguyễn Tuân, và 'Hương Trà' của Đỗ Trọng Huề. Các tác giả cho thấy các nhà Nho, dù có một cuộc sống đơn giản mấy đi chăng nữa, vẫn không thể thiếu trà Tàu trong cuộc sống thường nhật. Trà Tàu giúp các nhà Nho có thêm chất liệu cho cuộc sống tinh thần, bù đắp cho nếp sống thanh đạm:
Họ lịch sự như tiên, phú quý như giời,
Quất con ngựa rong chơi ngoài ngõ liễu.
Ta trồng cỏ đầy vườn, vãi hoa đầy đất,
Gọi hề đồng pha nước trước hiên mai.
(Thơ Hải Văn, trong Nguyễn Tuân 1962, tr.54)
Trong nhiều năm gần đây, có một số công trình nghiên cứu về trà của các khoa học gia, khám phá ra những lợi ích rất bất ngờ về trà. Từ những đặc tính y học của trà, nhiều người bất kể sống trong vùng văn hóa nào, bắt đầu sử dụng trà như một món uống hàng ngày để phòng chống một số ung thư và bệnh tật. Tuy nhiên, thật cần thiết để hiểu thêm nhiều về trà và nghệ thuật uống trà của cổ nhân Đông phương, vì lẽ những kiến thức này có thể giúp chúng ta hiểu rõ những lợi ích tinh thần mà trà có thể đem lại cho người uống. Trong suốt bài viết, từ ngữ 'Đông phương' mà tôi sử dụng gồm Trung Hoa và một số quốc gia từng chịu ảnh hưởng sâu đậm nền văn hóa của nước này như Nhật Bản và Việt Nam. Tôi cũng sẽ trình bày về nguồn gốc, các thành tố cần thiết và cung cách pha trà trong nghệ thuật uống trà, và sau cùng, sự liên hệ giữa trà và nghệ thuật dưỡng sinh của người xưa.
Tinh hoa và sự phát triển của thuật uống trà
I. NGUỒN GỐC TRÀ
- Theo quan điểm thực vật học:
Trà là loại cây xanh quanh năm. Tại Trung Hoa, trà chỉ mọc tại các tỉnh miền Tây Nam, trong khoảng vĩ tuyến 23 đến 25. Lượng mưa hằng năm lý tưởng cho sự phát triển của trà vào khoảng 200mm-260mm. Trà có thể chịu đựng được khí hậu lạnh, ngay cả dưới không độ, nhưng lại không thích hợp với những vùng có khí hậu nóng và ẩm thấp. Sau cuộc chiến tranh nha phiến với Trung Hoa năm 1842, người Anh quyết định cạnh tranh thị trường độc quyền trà từ Trung Hoa thay vì lệ thuộc vào sự cung cấp của quốc gia này. Grieve (2003) cho biết sau khi am hiểu kỹ thuật trồng trọt và thu thập nhiều hạt giống trà, người Anh chọn lựa vùng đồi núi Assam thuộc miền Đông Bắc Ấn Độ như khu vực canh tác chính, vì khí hậu vùng này rất thích hợp cho việc trồng trà. Khi bắt đầu việc khẩn hoang, họ khám phá ra rằng từ lâu nay, trà hoang đã có mặt và mọc tràn lan trong khu vực đồi núi này rồi. Sự việc đó gây ra một cuộc tranh luận sôi nổi về nguồn gốc của những cây trà hoang trong vùng Assam, nếu chúng và giống trà của Trung Hoa là một. Vào năm 1905 nhiều học giả đồng ý rằng bất chấp cây trà mọc ở vùng nào, chúng đều thuộc về giống loại Camellia sinensis. Theo Lehane (1977), khoa học ngày nay có khuynh hướng ủng hộ giả thuyết trà khởi xuất từ Ấn Độ vì có nhiều trà hoang, có họ hàng thân thích với Camellia, mọc trong vùng Assam nhiều hơn bất cứ vùng nào khác trên thế giới (tr.204).
Về thời điểm xuất hiện của cây trà, Giáo sư A. Kratsnow, một nhà thực vật học của trường Đại Học Kharkoff, nước Nga, cho rằng cây trà có thể là giống cây bản xứ của các vùng chịu ảnh hưởng gió mùa Đông Á, khi ông tìm thấy một số cây trà hoang mọc trong các vùng rừng rậm của miền Nam Nhật Bản. Giáo sư Kratsnow tin rằng cây trà đã có mặt từ lâu đời tại Trung Hoa và Nhật Bản trước khi người Đông Á biết sử dụng loại cây này. Chính vì giai đoạn trồng trọt trà quá ngắn cho sự thay đổi các loại trà hiện thời, ông kết luận rằng các tính chất cá biệt của trà Trung Hoa là kết quả từ các thay đổi khí hậu của vùng Đông Á từ Kỷ Nguyên thứ Ba (Tertiary Epoch), thay vì do sự trồng trọt nơi vùng khí hậu lạnh hơn hoặc từ đất đai cằn cỗi. Nhà thực vật học này truy ra hai giống trà chính là Assam và Trung Hoa. Giống thứ nhất vẫn còn mọc hoang tại Ấn Độ trong khi giống thứ nhì mọc hoang tại miền Nam Nhật Bản từ thời xa xưa đến nay (Ball 1982, tr.638-639). - Theo sử liệu, huyền thoại và truyền thuyết
Có hai giả thuyết tương phản về nguồn gốc trà tại Trung Hoa. Thứ nhất, trà biến hóa từ hai mí mắt bị cắt bỏ của tổ Đạt Ma, khi ngài tỏ quyết tâm chống lại cơn buồn ngủ trong lúc thiền định. Thứ nhì, Lục Vũ trong quyển 'Trà Kinh' cho rằng trà đã được biết đến tại Trung Hoa cách đây gần năm thiên kỷ vào thời vua Thần Nông. Theo tôi, hai giả thuyết 'trà do vua Thần Nông khám phá ra', và 'trà biến từ hai mí mắt của tổ Đạt Ma' đều có điểm đúng. Trà hoa nữ (tên khoa học: Camellia sinensis) đã có mặt ở một số khu vực tại Trung Hoa từ lâu đời. Trà được dùng như vật cúng tế vào đời nhà Tây Chu (1027-771 ÂL), và như vật để nhai như trầu thời Xuân Thu (403-221 ÂL). Đến thời Tần và Hán (221-8 DL), trà được ép thành dạng viên, và phơi khô. Khi dùng, người ta nghiền các viên trà, trộn với hành hương và gừng rồi nấu lên như một thức uống. Theo Lu Yu (1974), vào thời Tam Quốc (220-264 TL), trong một tiểu luận về thức ăn uống, danh y Hoa Đà cho rằng uống trà có vị đắng một thời gian dài sẽ tăng khả năng suy nghĩ nhanh nhẹn cho người uống (tr.131).
Tuy vậy, giống trà nhiều người biết đến tại Trung Hoa có thể đến từ Ấn Độ. Cũng có thể tổ Bồ Đề Đạt Ma đã mang theo giống trà ngon khi ngài đến Trung Hoa hoằng pháp năm 520 TL. Trong lịch sử Phật giáo, nhiều tu sĩ Ấn Độ khi đi sang các nước khác truyền bá chánh pháp, không những mang theo xá lợi Phật, mà còn mang các đặc sản của vương quốc mình. Swann (1966) cho biết vào năm 284 ÂÂL, công chúa Sanghamitta, con gái vua Asoka (A Dục), theo anh là đại đức Mahinda qua Tích Lan thiết lập ni đoàn. Để gieo rắc nhân lành, vua Asoka cho phép công chúa mang theo một nhánh chiết từ cây Bồ Đề, nơi Phật Thích Ca ngồi thiền trong 49 ngày cho đến khi đắc đạo. Cây Bồ Đề này hiện vẫn còn sống tại Pataliputra, và là bảo vật của Tích Lan (tr.41-42). Okakura (1964) đề cập đến ba biến cố quan trọng liên hệ đến sự có mặt của trà trong lịch sử Nhật Bản. Qua đó, có hai biến cố liên quan đến hai Thiền sư Nhật mang hạt giống trà từ Trung Hoa về nước. Biến cố đầu tiên xảy ra khi Thánh Vũ Thiên Hoàng (Shomu, 724-749) khoản đãi trà cho 100 tu sĩ Phật giáo tại hoàng cung năm 729. Số trà này có lẽ do sứ thần Nhật mua trong chuyến đi sứ Trung Hoa một thời gian trước đó. Biến cố thứ nhì xảy ra khi Thiền sư Saicho mang về một số hạt giống trà và trồng tại Yeisan năm 801. Biến cố thứ ba xảy ra năm 1191 khi Thiền sư Eisai Zenji trở về Nhật sau khi tu học Thiền Nam phái tại Trung Hoa. Những hạt giống này được trồng tại ba nơi. Một trong ba nơi đó, theo Okakura, quận Uji gần Kyoto vẫn được mệnh danh nơi sản xuất trà ngon nhất thế giới (tr.17). Ba biến cố trên và huyền thoại 'trà đến từ hai mí mắt của Bồ Đề Đạt Ma' cho thấy sự liên hệ mật thiết và ảnh hưởng của trà trong sự phát triển của Phật giáo tại Trung Hoa và Nhật Bản. Hiểu như vậy, tưởng cũng không có gì quá đáng cho lắm khi thấy nhiều người vẫn còn tin tưởng vào huyền thoại trên.
Xét về mặt dụng ý, truyền thuyết vua Thần Nông khám phá ra trà thỏa mãn tính tự hào của người Trung Hoa, khi họ không muốn một ngành nghệ thuật cao quý của họ, nhất là thuật uống trà, đến từ Ấn Độ, một quốc gia họ từng xem là 'rợ' vào các đời Hán, Đường, Tống. Tác phẩm 'Trà Kinh' còn cho thấy tính chuộng nghi lễ của Khổng giáo và sự hướng về thiên nhiên của Lão giáo đóng góp một phần quan trọng vào nghệ thuật uống trà Tầu. Trái lại, truyền thuyết trà biến sinh từ hai mí mắt của tổ Đạt Ma của Phật giáo vượt thoát khỏi phạm vi tự hào về quốc gia và chủng tộc. Qua truyền thuyết này, không những trà là hiện thân của quyết tâm chống khỏi sự buồn ngủ, mà còn cho kẻ uống nó sự 'tỉnh thức', một sức mạnh của tâm linh. Tuy vậy, hai truyền thuyết tương phản này lại có một nhân duyên khá gắn bó. Lục Vũ sinh năm 733 tại nơi ngày nay là tỉnh Hồ Bắc, Trung Hoa. Ông mồ côi từ thuở nhỏ và được một Thiền sư nuôi dạy. Vào thời Đường, thuật uống trà phát triển mạnh mẽ, song hành với sự phát triển của Thiền tông khắp Trung Hoa. Trà được ưa chuộng trong việc thực hành thiền vì đặc tính làm đầu óc người uống tỉnh táo, dễ tập trung hơn. Do đó, không có gì ngạc nhiên khi ta thấy các nhà uống trà sành điệu thường xuất thân từ, hoặc có liên hệ với tu sĩ Phật giáo. Vị cha nuôi của Lục Vũ là một thiền sư, và là một nhà uống trà sành điệu. Lục Vũ có dịp học nghệ thuật pha trà từ vị cha nuôi ngay từ thuở nhỏ. Bất chấp sự xuất thân từ cửa Thiền, ông không chú tâm mấy trong việc học kinh kệ để trở thành thầy tu, mà chỉ miệt mài vào văn chương và biên khảo. Vào những năm cuối đời, ông sống ẩn dật để hoàn tất công trình khảo luận bất tử về trà. Khi mất, ông được an táng trong chùa, bên cạnh tháp miếu của vị cha nuôi.
Giá trị của trà chỉ được công nhận khắp Trung Hoa từ sau đời nhà Đường. Có lẽ từ khi tác phẩm Trà kinh bắt đầu gây ảnh hưởng lớn lao trong mọi tầng lớp của xã hội nước này. Các thi hào của Trung Hoa vào thời kỳ này như Lý Bạch, Đỗ Phủ và Bạch Cư Dị đều lưu lại một số tác phẩm ca ngợi thú uống trà. Nhiều thế kỷ trước đó, mặc dù được ưa chuộng tại một số tỉnh miền Nam Trung Hoa, trà chỉ được xem như hạng thứ tại các vùng miền Bắc. Một đoạn trong 'Ký Chú các Phật Viện tại Lạc Dương' (Record of Buddhist Monasteries in Luoyang) vào thế kỷ thứ sáu cho thấy rõ điều này:
Hoàng đế Gaozu hỏi: „Trong số các món tuyệt hảo của Trung Hoa, món trừu so sánh với súp cá và trà so sánh với sữa như thế nào?“ Wangsu trả lời: „Trừu là đệ nhất của các loài sống trên đất, trong khi cá được xem như đệ nhất của các loài sống trong nước. Cả hai đều được xem như các thức ăn độc đáo. Tùy theo nhận thức riêng, có một sự khác biệt giữa thượng hạng và thứ hạng. Nếu ví trừu với các quốc gia lớn, thì cá được xem như các quốc gia nhỏ. Chỉ có trà là không so sánh được khi nó chỉ đáng xem như 'nô lệ của sữa’ „ (Kieschnick 2003, tr.264).
Trà đã có mặt tại nước ta ít nhất 10 thế kỷ. Sách 'An Nam Chí Lược' chép: „Tháng 5 năm thứ tám niên hiệu Khai Bảo, Đinh Liễn tiến cống vàng, lụa, sừng tê, ngà voi, trà thơm“ (trong Nhất Thanh 1970, tr.139). Sử kiện này còn cho ta biết vào thuở ấy, nước ta đã có giống trà ngon và kỹ thuật chế biến trà khô. Qua tác phẩm 'Thoái Thực Ký Văn', Trương Quốc Dụng (1801-1864) cho biết sự phân bố trà tại nước ta vào thế kỷ 19 như sau: „từ Phú Yên trở vào không có cây trà, từ Bình Định ra Bắc xứ nào cũng có“ (trong Nhất Thanh 1970, tr.135). Dữ kiện đó giải thích được sự việc người miền Bắc và miền Trung nước ta có một truyền thống uống trà và canh tác trà từ lâu. Trà còn được đề cập trong ca dao tục ngữ, và các tác phẩm văn học, điển hình như văn chương yêu nước của cụ Phan Bội Châu qua bài 'Thơ gọi trà'. Cụ Phan dùng trà để ám chỉ người dân Việt trong công cuộc chiến đấu dành độc lập từ thực dân Pháp:
Trà ơi! Còn nước là vinh hạnh,
Cháy lưỡi khô môi thảm những ai!
Mục đích của thiền định là để lắng tâm và tinh khiết tâm. Trà đạo (chanoyu) của Nhật Bản sử dụng cung cách pha trà như một phương pháp lắng tâm. Qua phần nghi lễ, tâm người uống trà có dịp tập trung, theo dõi từng động tác pha trà và thưởng thức từng ngụm trà như theo dõi từng hơi thở trong thiền định. Quan tâm đến sự tinh khiết đã cổ vũ cho nghệ thuật uống trà của người xưa rất nhiều: nước pha trà phải trong trẻo, tinh khiết, không vướng các mùi tạp. Trà làm cho tâm người uống lắng đọng, thanh thản.
II. CÁC THÀNH TỐ CẦN THIẾT TRONG NGHỆ THUẬT UỐNG TRÀ
Bên cạnh các dữ kiện lịch sử, có khá nhiều giai thoại về nghệ thuật và cung cách uống trà của người xưa được ghi nhận lại trong các tác phẩm văn học. Mặc dù tính thực của giai thoại luôn là một nghi vấn, tôi vẫn sử dụng các giai thoại đó đây từ nhiều thời đại như một nguồn tài liệu bổ túc. Lục Vũ cho rằng có chín điều khó trong thuật uống trà: Một là sản xuất, hai là biết phân biệt và lựa chọn, ba là có đủ các thiết bị trong việc pha trà, bốn là lửa, năm là nước, sáu là chế biến, bẩy là nghiền nhuyễn (trong trường hợp trà bột vào đời Đường), tám là pha trà, và chín, thưởng thức trà (Lu Yu 1974, tr.118). Trong số chín điều khó vừa kể, việc sản xuất, chế biến và nghiền nhuyễn trà cho thấy rõ cách thức uống trà bột trong thời Lục Vũ. Trong phạm vi bài viết này, tôi sẽ đề cập đến các thành tố cần thiết trong nghệ thuật uống trà như loại trà, bình và chén trà, lửa, vật liệu để đun nước, nước và khay trà. Tôi cũng sẽ trình bày về dược tính và dưỡng sinh tính của trà.
- Loại trà
Thông thường, tên gọi một loại trà đến từ một trong các yếu tố sau đây:
• Nơi xuất xứ của trà, như các trà Hoàng Liên Sơn và Cao Bằng của Việt Nam; trà Long Tĩnh, Hoàng Sơn và Vân Sơn của Trung Hoa.
• Duyên cớ khám phá ra trà, như trà Ô-long (Oolong) còn gọi là Hắc Long của Trung Hoa. Giai thoại kể rằng trong một dịp tình cờ, người tìm ra giống trà này thấy một con rắn đen cuộn vòng gốc cây trà. Vì rắn và rồng cùng một loại nên tên loại trà này được thi vị hóa thành Hắc Long.
• Cách chế biến để có hương vị độc đáo, điển hình như trà ướp sen, trà ướp thủy tiên và trà Trảm Mã. Ngoại trừ hoa thủy tiên ra, những ai sành uống trà tại nước ta thường không thích trà ướp với hoa nào, vì sợ mất tính tinh khiết của trà. Trong số các món ăn uống cầu kỳ của giới vua chúa Trung Hoa, trà Trảm Mã thường được nhiều người nhắc đến.
• Tính chất hoặc đặc điểm, như Khổ Đinh trà (trà đắng), trà móc câu, Bạch Mao Hầu trà và Thiếu Nữ Hương trà. Theo Maitland (1982), Thiếu Nữ Hương trà là loại trà đúc thượng thặng nhất của Trung Hoa. Trà được hái từ nhiều chỏm nhỏ của đọt non và sau đó, được đúc thành dạng khối (kỹ thuật chế biến trà đời Đường). Từ nhiều thế kỷ, loại trà này không còn thấy sản xuất nữa. Nếu có lưu hành, chẳng qua do sự truyền lại của tổ tiên cho con cháu như một vật gia bảo. Giá của loại trà này rất cao và thường được dùng như thuốc trong việc chữa bệnh, thay vì thức uống hằng ngày. Lý do trà có biệt danh trên vì thời xưa, trà thường được bán trong những rổ nhỏ đeo trước ngực của các thiếu nữ. Sức ấm của cơ thể các thiếu nữ làm thăng hoa các đọt trà nhỏ bé trong khối trà (tr.87).
• Biểu tượng để so sánh hoặc ám chỉ, như trà Bạch Mẫu Đơn và Thiết Quan Âm. Hoa mẫu đơn được dùng để chỉ tính quý phái, và Quan Âm Bồ Tát với bình nước cam lồ tượng trưng cho sự tinh khiết.
• Tên người khám phá ra giống trà, điển hình như trà Vũ Di, tỉnh Phước Kiến. Theo truyền thuyết, trà này do hai anh em ông Vũ và ông Di tìm ra. Hai ông bán hết tài sản, dọn vào ở trong rừng trà trên ngọn núi mà họ tìm ra để sớm hôm thưởng thức giống trà độc đáo này. Từ đó, người Trung Hoa đặt tên ngọn núi này là núi Vũ Di.
• Giai thoại hoặc truyền thuyết liên hệ đến trà, như trường hợp trà 'Đại Hồng Bào', trồng trên núi Vũ Di, tỉnh Phước Kiến. Truyền thuyết kể rằng một vị hoàng đế đời Đường tỏ lòng biết ơn các cây trà đã chữa lành bệnh cho mẹ của ngài, đã ban bốn áo bào để bọc quanh bốn thân cây trà quý.
Kích thước một cây trà tùy thuộc nhiều vào giống, khí hậu và nơi chốn. Cùng một giống trà Trung Hoa, khi trồng tại Trung Hoa thường có chiều cao một thước, khi trồng tại Ấn Độ thường có chiều cao hai thước (Ball 1982, tr.639). Giống trà do người trồng thường nhỏ hơn giống trà cùng một loại mọc nơi hoang dã. Điều này có thể hiểu được vì cây trà quá cao, sẽ khó hái hơn. Do vậy, người trồng trà có khuynh hướng kềm hãm chiều cao các cây trà trong đồn điền của họ. Cứ để cho phát triển tự nhiên, một cây trà có thể có kích thước như một loại cổ thụ. Lehane (1977) cho biết tại vùng Vân Nam, Trung Hoa có một cây trà sống đến 800 tuổi. Đường kính ở gốc của cây này đo được một thước, và cao 20 thước. Mỗi lần muốn hái lá trà, người ta phải trèo lên ngọn để hái những đọt lá non (tr.80).
Trà Trung Hoa có nhiều loại và thay đổi theo thời gian. Vào đời nhà Đường, người Trung Hoa phơi nắng lá và nghiền nhuyễn lá trà để làm nổi bật hương vị của trà. Sau đó, trà được đãi lược, hấp và ép vào khuôn đúc và đặt trong những gian phòng có nhiệt độ cao để sấy khô. Theo Bressett (1998) trà ép khuôn được dùng làm tiền tệ cho một số vùng tại Á Châu như tại Tây Bá Lợi Á, Mông Cổ, Tây Tạng và một số vùng biên giới phía Tây của Trung Hoa. Người Nga sống trong vùng Tây Bá Lợi Á ưa chuộng trà ép khuôn hơn các đồng tiền kim loại vì lợi ích thực dụng của chúng trong việc chữa các bệnh về cảm cúm. Trà ép khuôn có nhiều kích thước và được đóng dấu cho biết giá trị của chúng. Cách dùng trà loại này khác hẳn với cách uống trà ngày nay. Khi pha trà, một phần của bánh trà được bẻ ra, nấu với chút muối tương tự như cách nấu súp. Đến đời nhà Tống (960-1280 DL), trà dạng hình khối nhường chỗ cho dạng bột. Nhiều loại trà bột nổi tiếng vào thời này có thể kể đến như 'Lông Mày Xám', 'Móng Vuốt Chim Ưng', và 'Lưỡi Chim Sẻ'.
Trong lịch sử Trung Hoa, hoàng đế Huy Tôn (1082-1135) của nhà Bắc Tống được xem như vị có công lớn trong việc cổ vũ và phát huy một số ngành nghệ thuật như hội họa, thơ văn và uống trà. Bản thân ông là một họa sĩ chuyên vẽ về đề tài hoa điểu, và là một thư pháp gia (calligrapher) nổi tiếng. Ông cũng viết một số bài ca ngợi thú uống trà bột. Ông say mê các ngành nghệ thuật này đến độ không ý thức được việc đế quốc Kim, từ phương Bắc, sắp sửa thôn tính trọn vẹn đất nước của ông.
Khi quân Mông Cổ chiếm trọn Trung Hoa và lập ra nhà Nguyên năm 1280, vị trí của trà bị lu mờ, một phần vì thời cuộc và một phần vì những người cai trị mới có sở thích dùng các thức uống của dân du mục Mông Cổ, như rượu sữa kumiss. Đến thời nhà Minh (1368-1644), trà không những được phục hồi vị trí vẻ vang của các thời Đường, Tống, mà còn thăng hoa như một nghệ thuật cao quý. Châu Nguyên Chương (1328-1398), người sáng lập ra nhà Minh, quyết định bỏ hẳn lối sản xuất trà ép khuôn và trà bột vì quy trình sản xuất các loại trà này đòi hỏi rất nhiều thời gian và công sức. Quyết định này là động cơ thôi thúc các nghệ nhân lò Cảnh Đức Trấn, tỉnh Giang Tây và lò Yixing, tỉnh Giang Tô vẽ ra nhiều kiểu ấm và chén tinh xảo cho cách thức uống trà mới. Trà bột nhường chỗ cho trà có dạng lá tự nhiên và có cách chế biến như ngày nay. Châu Nguyên Chương và Lục Vũ giống nhau ở hai điểm; cả hai cùng xuất thân từ cửa chùa và khi xuất thế, cả hai có ảnh hưởng lớn lao trong cách thức uống trà của người Đông phương.
Theo Maitland (1982), nước sản xuất nhiều loại trà và số lượng nhiều nhất trên thế giới là Ấn Độ, chiếm gần 1/3 thị trường trà thế giới với hơn 1,000 loại khác nhau. Vì sống trong vùng ảnh hưởng văn hóa Trung Hoa, chúng ta chỉ biết, hoặc nghe nói đến độ vài chục loại nổi danh của Trung Hoa mà thôi. Vào đời nhà Đường, Lục Vũ đề cập đến 32 loại trà, chia làm ba hạng của năm khu vực tại Trung Hoa. Trong đó, các loại thượng hạng gồm có Sơn Châu của khu vực Sơn Nam, Quang Châu của khu vực Hoài Nam, Hồ Châu của khu vực Tây Chiết Giang, Bành Châu của khu vực Kiến Nam, và Việt Châu (biệt danh 'Trà của các vị tiên', mọc ở vùng đỉnh Độc Bố Tuyền) của khu vực Triết Đông. Vào thế kỷ 19, học giả Phạm Đình Hổ viết thoáng qua các danh trà như Dương Tiễn, Vân Long, Võ Di (còn gọi là Vũ Di), Chính Sơn và Tuyết Nha. Tiền bán thế kỷ 20, Nguyễn Tuân đề cập đến một số danh trà thời nhà Minh, như Vũ Di; thời nhà Thanh như Lý Tú Uyên, Bạch Mao Hầu và Trảm Mã.
Vương Hồng Sển (1993) đề cập đến ba giả thuyết trái nghịch nhau về nguồn gốc của 'Trảm Mã' trà. Theo thuyết thứ nhất, trà có sự bắt nguồn từ thời Tần Thủy Hoàng (thế kỷ thứ hai trước công nguyên). Thuyết thứ nhì cho biết trà có sự bắt đầu vào đời Từ Hy Thái Hậu (1835-1909) và theo thuyết thứ ba, Đỗ Trọng Huề (năm không rõ) cho biết trà có xuất xứ từ vùng Vu sơn, Trung Hoa. Trong số các thuyết kể trên, tôi nhận thấy thuyết thứ nhì lý thú hơn, và thích hợp nhiều với cung cách ăn uống sành điệu nổi tiếng của Từ Hy Thái Hậu. Theo thuyết này, trong một buổi yến tiệc, khi người đầu bếp sắp sửa pha trà thì mới khám phá ra rằng tất cả trà quý, hái trong chốn thâm sơn, đã bị một con ngựa sút chuồng ăn sạch. Quá đỗi kinh hoàng, người đầu bếp liền giết ngay con vật, mổ bao tử nó ra để lấy lại trà quý, pha cho Thái Hậu và các quan khách dùng. Ngạc nhiên thay, khi pha xong, nước trà lại có một hương vị rất đặc biệt đến độ sáng hôm sau, Từ Hy Thái Hậu phải khen ngợi, truy hỏi cho được vì nguyên cớ gì, và quy trình chế biến như thế nào mà trà có một hương vị độc đáo như vậy (tr.49-50).
Câu truyện kể trên cho thấy các hóa chất trong dịch vị của thú vật có khả năng thăng hoa hương vị của trà. Tương tự như điển tích 'Trảm mã trà' của Trung Hoa, 'Cà phê cứt chồn' là một giai thoại thú vị cho thấy tính uống sành điệu của nông dân Việt. Ngoài ra, Vương Hồng Sển (1993) còn đề cập đến các hóa chất tiết ra từ côn trùng, như nước dãi, và phân, có ảnh hưởng lớn lao đến hương vị của trà. Vào đầu mùa Xuân của một thời xa xưa, các đạo sĩ, hoặc thiền sư sành uống trà thường đến núi Ly, huyện Trường An, tỉnh Thiểm Tây, tìm các lá trà non bị sâu làm tổ, mang về chế biến, đặt tên 'Trùng diệp' trà. Trong trường hợp các cục phân của sâu ăn trà quý được chế biến, thì người sành điệu đặt tên 'Trùng xí' trà (tr.50-51).
Việc chọn lựa loại trà nào thượng thặng đòi hỏi người nhận định một sự nghiên cứu rộng rãi và gạn lọc. Thông thường, các website về trà có khuynh hướng đề cao những danh trà mà họ trữ bán. Theo sự nhận xét chung của nhiều người uống trà sành điệu và của nhiều tác giả hiện nay, loại bạch trà tuyệt hảo của Trung Hoa là Bạch Mẫu Đơn của tỉnh Phước Kiến. Thanh trà thượng hạng gồm có Long Tĩnh (giếng rồng), trồng tại làng Long Tĩnh, gần Hồ Tây, tỉnh Chiết Giang; và Vân Sơn, được trồng trên vùng núi non hiểm trở của tỉnh Quảng Tây. Truyền thuyết kể rằng khỉ được huấn luyện để hái những lá trà mọc nơi ngặt nghèo nhất. Người Trung Hoa rất ưa chuộng trà Ô-long. Chỉ riêng Đài Loan thôi đã có hơn 40 loại trà khác nhau. Tại Trung Hoa Lục Địa, loại trà Ô-long nổi tiếng nhất là Thiết Quan Âm ('thiết' đồng nghĩa với trà, do người miền Tây Nam đất Thục gọi) và Vũ Di Sơn của tỉnh Phước Kiến. Riêng trà Vũ Di Sơn lại có bốn loại nổi tiếng thứ tự từ thượng thặng cho đến hảo hạng: 'Bạch Kê Quan' (Bai Ji Guan), 'Đại Hồng Bào' (Da Hong Pao), 'Thiết La Hán' (Tie Luo Han) và 'Thủy Kim Quy' (Shui Jin Gui). 'Thiếu Nữ Hương' trà là một loại trà ép khuôn rất cầu kỳ, tưởng chừng chỉ có trong truyền thuyết mà thôi (đã đề cập trong phần 'Nguồn gốc tên gọi của trà' trước đây).
Bất kể loại trà nào, Lục Vũ cho rằng trà mọc từ thiên nhiên có hương vị độc đáo hơn loại trà trồng. Người xưa tin rằng, ngay với loại mọc từ thiên nhiên, một cây trà sẽ có hương vị độc đáo nếu nó mọc trên những ghềnh núi cheo leo, hiểm trở. Có nhiều giai thoại nói về việc người xưa biết sử dụng khỉ trong công việc hái trà từ những chỗ khó lui tới. Vào thời nhà Minh, một số trà cực hiếm đến độ chỉ có hoàng đế mới có quyền thưởng thức. Để có đọt trà ngon từ những cây trà quý này, người xưa phải nghĩ đến việc chọc tức, hoặc hành hạ một số khỉ để chúng bứt cành lá trà quý, quăng xuống phía người cho hả cơn tức giận (Maitland 1982, tr.17).
Các tên trà và các địa danh nổi tiếng kể trên là các tên gọi trong suốt 12 thế kỷ. Tùy theo thời kỳ mà cùng một loại trà có thể có các tên gọi khác nhau. Dựa vào phương pháp chế biến, trà có thể chia làm năm loại chính. Năm loại này là bạch trà, thanh trà, Ô-long, hắc trà còn gọi là hồng trà và Pu-erh trà. Sự phân loại này chỉ có tính tương đối mà thôi. Một số nhà nghiên cứu trà còn liệt kê trà ướp như một loại chính thay vì xếp nó thuộc nhóm hắc trà. - Các cách chế biến trà
Tùy theo cách chế biến trà mà cùng một loại trà, người ta có thể tạo ra nhiều loại khác nhau. Bạch trà là loại thuần chất nhất. Để chế biến bạch trà, những đọt trà nhỏ nhất và non nhất được hái, hấp ngay lập tức để phòng chống sự lên men, rồi sấy khô. Người ta chỉ hái những đọt cực non của trà vào mùa Xuân, khi chúng còn được bao bọc bởi những lông mịn màu trắng. Khi pha, nước của bạch trà có màu trắng. Chính vì vậy mà trà loại này có tên bạch trà. Đây là loại trà đòi hỏi ít sự chế biến nhất. Căn cứ theo các nghiên cứu khoa học gần đây, bạch trà chứa đựng nhiều antioxidant chống ung thư nhiều hơn các loại trà khác.
Thanh trà được chế biến từ những lá trà non, được hấp, đảo đều bằng tay hoặc bằng máy, rồi sấy khô. Nước của thanh trà có màu xanh lục nhạt. Đây là màu nguyên thủy của lá trà không ủ.
Ô-long trà chế biến từ những lá non, phơi nắng trên những tấm phên bằng tre, vò nát và đựng trong các rổ tre. Mục đích của sự vò nát là để làm hư hại những mạch dẫn nhựa và cạnh lá, tạo ra màu đỏ. Sau đó, lá trà được ủ ngắn hạn (semi-fermented) trong vài tiếng đồng hồ, và sao liền tay trên các chảo nóng trong một tuần nhang và sấy khô.
Hắc trà còn gọi là Hồng trà được chế biến tương tự với phương pháp kể trên, ngoại trừ thời gian ủ lâu hơn. Chính sự ủ làm trà biến màu từ xanh lục ra đen. Sau khi sấy khô, trà được pha với các loại trà khác. Đối với quan niệm của người Trung Hoa, hắc trà không được chuộng vì loại trà này được làm từ những lá tạp nham. Tuy vậy, đây là loại trà mà thế giới ưa chuộng trong việc ăn uống điểm tâm. Khi uống, người Tây phương thường pha hắc trà chung với sữa hoặc đường.
Pu-erh trà là loại trà cổ xưa và hiếm nhất. Loại trà này chỉ thích hợp cho những người sành uống trà mà thôi. Cách thức chế biến loại trà này rất bí mật. Trà được ủ, có khi hai lần và thường được ép thành dạng bánh, hoặc viên gạch. Nước của Pu-erh trà thường có ánh đỏ đậm hoặc nâu.
Bùi Thế Trường (2005) cho biết căn cứ vào sự lên men mà trà có những mùi vị khác nhau. Các yếu tố quan trọng trong việc lên men có thể kể đến như thời gian, nhiệt độ và ánh sáng trong giai đoạn lên men. Trong quá trình lên men của trà xanh, các thành tố căn bản hóa học chính là (-) Epicatechin, (-) Epicatechin-3-gallate, (-) Epigallocatechin và (-) Epigallocatechin-3-gallate. Trong cấu trúc phân tử polyphenols của trà Oolong, Catechin quinone và Gallocatechin là hai cấu trúc chính. Hai cấu trúc phân tử polyphenols của trà đen là Theaflavins và Thearubigins (tr.16-18). Cũng theo Bùi Thế Trường (2005), thành phần hóa học của cả trà xanh và trà đen trong một tách trà đều có cùng lượng carbon hydrates (75mg), electrolytes (50mg), cafeine (50mg). Lượng amino acid của trà đen có nhiều hơn lượng của trà xanh: 65-75 mg so với 40-6-mg. Trái lại, lượng catechines của trà xanh lại nhiều hơn lượng của trà đen: 150-210 mg so sánh với 15-50 mg (tr.20).
Tại nước ta, bên cạnh trà Tàu còn có trà tươi, trà mạn, lá và nụ vối. Trà tươi có vị chát đặc biệt của lá trà già. Đối với người uống trà sành điệu thì trà tươi thiếu vị êm ái, ngọt ngào của các lá trà non mởn. Tuy vậy, khá nhiều người bình dân Việt Nam ưa chuộng lối uống trà tươi, một phần vì giá rẻ, một phần vì vị chát đặc biệt của nó. Trong một số năm gần đây, các nhà sản xuất trà tại Việt Nam còn chế biến trà tươi khô để thích hợp với nhu cầu xuất cảng. - Ấm trà
Ấm và chén trà quý thường do các lò sành sứ nổi tiếng của Trung Hoa như Cảnh Đức Trấn và Yixing làm ra. Tuy nhiên, nước ta cũng sản xuất các đồ sành sứ dành cho việc uống trà. Hai hình đính kèm cho thấy hai ấm sứ hoa lam triều Nguyễn (thế kỷ 18). Ấm sứ nước ta có những nét rất đặc trưng Việt Nam, như kích thước của vòi khá nhỏ so với thân ấm; các hình ảnh trên thân ấm có đường nét rất phóng khoáng; miệng ấm khá rộng, và nắp lại không có núm cầm (Ảnh liệu: Nguyễn Anh Tuấn & Trịnh Sinh 2005, tr.142). Hai kiểu ấm trà trên thích hợp cho việc pha trà xanh, hoặc trà tươi của những người bình dân. Các nhà Nho thường có thú vui uống trà Tàu, theo kiểu thời Minh, Thanh. Vì vậy, các ấm trà thường do các lò sành sứ danh tiếng của Trung Hoa làm ra
Đồ sành sứ của nước ta có dịp phát triển mạnh mẽ khi triều nhà Minh giới hạn thị trường sành sứ của họ vào thế kỷ 14 và 15. Stevenson & Guy (1997) cho biết nhiều khai quật mới đây tại tỉnh Lâm Đồng (xưa thuộc Chiêm Thành), Phi Luật Tân, Nam Dương và Nhật Bản cho thấy 14 lò sành sứ ở tỉnh Hải Dương, Việt Nam đã xuất cảng sang các quốc gia này với mức độ quy mô vào thế kỷ 14 và 15 (tr.37). Trong số đó, lò Chu Đậu nổi bật nhất về mặt phẩm chất và sáng tạo nghệ thuật (tr.86). So với đồ sành sứ Trung Hoa, đồ sành sứ của Việt Nam kém phần sắc sảo và trau chuốt. Tuy nhiên, chính vì tính đơn giản và mộc mạc mà đồ sành sứ Việt Nam có một thế đứng riêng trên thị trường đồ sành sứ trong vùng. Việc các Thiền sư Nhật chọn đồ sành sứ Việt Nam cho các nghi thức trà đạo thể hiện tính 'đồng thanh tương ứng, đồng khí tương cầu' của những người hiểu Thiền. Vào thế kỷ 14 và 15â, nghệ thuật Thiền tông vẫn còn ảnh hưởng lớn lao vào cảm mỹ của các nghệ nhân nước ta. Các hoa văn Việt Nam thường diễn tả sóng nước, cánh hoa sen, và hình ảnh của cá bống, tôm tép và rong rêu. Tất cả cho thấy sự kiện nghệ nhân nước ta yêu mến tính giản dị của cuộc sống hiện tại. Trong suốt nhiều thế kỷ, thiền giúp những người thực hành Trà đạo tại Nhật thấy được, và tiếp xúc với thực tại mầu nhiệm qua các hình vẽ sống động này.
Hình dạng ấm trà thay đổi theo thời gian và tùy theo cho loại trà nào. Hầu hết các ấm trà mà ta thấy ngày nay tại Trung Hoa và Việt Nam là các kiểu ấm từ thời Minh và Thanh. Có hai loại ấm trà chính là ấm chu sa (màu gan gà), và ấm tráng men (porcelain). Ấm chu sa là một đặc sản của thị trấn Yixing, tỉnh Giang Tô (Jiangsu), Trung Hoa. Loại ấm này thích hợp cho các loại trà ủ như ô-long và hắc trà. Loại tráng men thích hợp cho thanh trà (gồm có trà mộc và trà ướp các loại hoa) và bạch trà. Ấm chu sa có đặc tính hấp thụ hương vị của trà mà người ta pha chế trong nó. Lâu dần, loại ấm này phát triển một vị đặc biệt riêng, đến độ người uống trà sành điệu chỉ dùng một ấm chu sa riêng cho một loại
Trà Đạo Kiểu Hàn Quốc

Trà xuất hiện ở rất nhiều nơi trên thế giới, mỗi dân tộc có cung cách uống trà khác nhau. Người Nhật nâng trà lên hàng nghi thức được gọi là trà đạo, nhưng tinh thần đó không chỉ riêng Nhật mới có. Trường hợp Hàn Quốc ở đây là một ví dụ.

Trà xuất hiện ở rất nhiều nơi trên thế giới, mỗi dân tộc có cung cách uống trà khác nhau. Người Nhật nâng trà lên hàng nghi thức được gọi là trà đạo, nhưng tinh thần đó không chỉ riêng Nhật mới có. Trường hợp Hàn Quốc ở đây là một ví dụ.
Ta từng nghe nói những loại danh trà như trà An Độ, Tích Lan, trà Ô Long (Trung Quốc) hay trà Jasmine (ướp hoa lài) và Earl Grey rất phổ biến ở châu Au, nhưng thực ra có tới hàng ngàn loại trà khác nhau trên thị trường thế giới. Trà có thể trồng ở nhiều vùng đất đai, thổ nhưỡng, khí hậu và độ cao khác nhau, và được phơi sấy, chế biến theo nhiều kiểu khác nhau để thỏa mãn khẩu vị của khách tiêu dùng. Trà cũng được công nhận là giúp thư giãn đầu óc và bổ mắt. Tuy nhiên, trong kho tàng kiến thức về trà trên khắp thế giới, thì trà đạo Hàn Quốc theo kiểu cổ truyền lại ít được biết tới.
Nếu bạn thắc mắc không biết nguồn gốc cây trà ở đâu ra, có lẽ các nhà khảo cổ, thực vật học hay sử học sẽ có câu trả lời cho bạn, còn truyền thống Phật giáo Đông Á, như Hàn Quốc chẳng hạn, sẽ có câu trả lời riêng. Ngày xưa, Bồ đề Đạt ma từ An Độ qua Trung Quốc để hoằng dương Phật pháp, sau đó lên núi quay mặt vào vách đá 9 năm để tham thiền. Vì cũng là người phàm nên ông cũng có những lúc buồn ngủ và ngủ gật, điều này cản trở việc thiền định và trầm tư của ông, nên ông quyết định cắt bỏ hai mí mắt để mắt không bao giờ nhắm lại được. Chỗ ông vất hai mẩu thịt mí mắt đó bỗng mọc lên một bụi cây, đó là cây trà. Cho nên trà và nghi thức uống trà gắn liền với việc thiền định là vì thế.

Đó là chuyện truyền thuyết. Còn trà cũng có lịch sử lâu đời tại Hàn Quốc. Sử sách có ghi chuyện Hoàng hậu Ho Hwang-Ok của vương quốc Karak (tồn tại từ năm 42 trước Công nguyên đến 532 sau CN) đã mua trà từ An Độ để về trồng. Đến ngày nay, vùng núi Chiri vẫn là nơi sản xuất trà hảo hạng của Hàn Quốc. Từ thời Tam Triều (18 trước CN - 668 sau CN) về sau, đã có nhiều sử liệu đề cập tới trà. Triều Silla thống nhất Hàn Quốc (668-935) là thời kỳ trà trở nên phổ biến khắp nơi, nhất là trong triều đình, tầng lớp có học và tu sĩ. Dưới triều Koryo (935-1392), trà đạo trở thành quốc đạo. Trà được pha và dâng cúng Phật. Nhưng đến thời Choson (1392-1910), Khổng giáo phát triển mạnh ở Hàn Quốc lấn át hẳn Phật giáo, nên trà đạo mất tính phổ biến và chỉ còn tồn tại trong các chùa thờ Phật.
Nghi thức dùng trà là bắt buộc trước buổi thực tập thiền định vì nó giúp làm đầu óc minh mẫn hơn, nên nó cũng là một cách thư giãn sau giờ lao động, một dịp giao tế xã hội. Trong xã hội hiện đại, uống trà là cách thoát khỏi nhịp sống quay cuồng. Bậc thầy về trà ở Hàn Quốc hiện nay là bà Kam Seung-hee. Bà thành lập Học viện giáo dục trà đạo vào năm 1979 để nghiên cứu bảo tồn lịch sử và phong tục trà đạo và truyền bá nó cho dân chúng.
Trà được uống trong phòng khách yên tĩnh. Người Hàn quốc thường mặc y phục cổ truyền khi uống trà. Nước pha trà là nước suối, nước giếng hoặc nước mưa được đun sôi kỹ trên một bếp lò bằng đồng đặt ngay trong phòng khách. Mỗi khách có một chung uống trà (chung giống như tách nhưng không có quai cầm) đặt trên một dĩa nhỏ bằng gỗ. Am trà và các chung trà được tráng nước sôi để chúng nóng lên. Trong hộp đựng trà có một cái muôi bằng tre để xúc trà cho vào bình. Thông thường mỗi khách được 2 gram trà và một buổi uống trà chỉ có tối đa là bốn người. Nước sau khi sôi, được để nguội bớt, xuống còn khoảng 70 hay 80 độ C, được rót chậm rãi và đều đặn từ ấm vào bình trà. Sau đó đậy nắp bình và chờ khoảng 2 phút.
Tất cả những việc đó gần như là bắt buộc và giữ phần quyết định chất lượng trà, từ nước để pha, lá trà, nhiệt độ, đến thời gian để ra trà. Theo bà Kam, trà chất lượng cao là búp trà được hái vào đầu mùa xuân và được phơi sấy cẩn thận để vẫn giữ được sắc xanh và mềm mại. Tuy nhiên, cũng như Nhật Bản và nhiều nước phương Tây, Hàn Quốc cũng sản xuất thứ trà bột trong gói nhỏ (kiểu trà Lipton) có thêm vitamin C để pha nhanh trong khi làm việc văn phòng. Và uống thứ trà đó thì chẳng nghi thức cầu kỳ gì cả.
Hai phút sau khi pha, bình trà được rót lần lượt từng chút một vào các chung (không phải rót đầy chung này rồi sang chung khác) mà rót làm nhiều lần xoay vòng cho đến khi hết bình. Mục đích của cách rót này là để mỗi khách nhận được một lượng trà với phẩm chất và nồng độ tương đồng nhau. Một bình trà như thế sẽ được châm thêm nước ba lần và mỗi khách được uống ba chung. Chung thứ nhất nhiều mùi hương, chung thứ hai có vị đậm hơn và chung thứ ba cả hương và vị đã dịu và đòi hỏi cảm nhận tinh tế hơn. Trà thường được uống từng ngụm nhỏ, chậm rãi (vì buổi uống trà là lúc không còn thời gian nữa).
Trong thời hiện đại, uống trà để thư giãn, cũng giống như việc tập thể dục để giữ sức khoẻ, vẫn thường bị coi là mất thì giờ. Nhưng thực ra dành cho chúng độ nửa giờ mỗi ngày, có thể bạn sẽ thấy cuộc sống của mình khác đi.
Ta từng nghe nói những loại danh trà như trà An Độ, Tích Lan, trà Ô Long (Trung Quốc) hay trà Jasmine (ướp hoa lài) và Earl Grey rất phổ biến ở châu Au, nhưng thực ra có tới hàng ngàn loại trà khác nhau trên thị trường thế giới. Trà có thể trồng ở nhiều vùng đất đai, thổ nhưỡng, khí hậu và độ cao khác nhau, và được phơi sấy, chế biến theo nhiều kiểu khác nhau để thỏa mãn khẩu vị của khách tiêu dùng. Trà cũng được công nhận là giúp thư giãn đầu óc và bổ mắt. Tuy nhiên, trong kho tàng kiến thức về trà trên khắp thế giới, thì trà đạo Hàn Quốc theo kiểu cổ truyền lại ít được biết tới.
Nếu bạn thắc mắc không biết nguồn gốc cây trà ở đâu ra, có lẽ các nhà khảo cổ, thực vật học hay sử học sẽ có câu trả lời cho bạn, còn truyền thống Phật giáo Đông Á, như Hàn Quốc chẳng hạn, sẽ có câu trả lời riêng. Ngày xưa, Bồ đề Đạt ma từ An Độ qua Trung Quốc để hoằng dương Phật pháp, sau đó lên núi quay mặt vào vách đá 9 năm để tham thiền. Vì cũng là người phàm nên ông cũng có những lúc buồn ngủ và ngủ gật, điều này cản trở việc thiền định và trầm tư của ông, nên ông quyết định cắt bỏ hai mí mắt để mắt không bao giờ nhắm lại được. Chỗ ông vất hai mẩu thịt mí mắt đó bỗng mọc lên một bụi cây, đó là cây trà. Cho nên trà và nghi thức uống trà gắn liền với việc thiền định là vì thế.

Đó là chuyện truyền thuyết. Còn trà cũng có lịch sử lâu đời tại Hàn Quốc. Sử sách có ghi chuyện Hoàng hậu Ho Hwang-Ok của vương quốc Karak (tồn tại từ năm 42 trước Công nguyên đến 532 sau CN) đã mua trà từ An Độ để về trồng. Đến ngày nay, vùng núi Chiri vẫn là nơi sản xuất trà hảo hạng của Hàn Quốc. Từ thời Tam Triều (18 trước CN - 668 sau CN) về sau, đã có nhiều sử liệu đề cập tới trà. Triều Silla thống nhất Hàn Quốc (668-935) là thời kỳ trà trở nên phổ biến khắp nơi, nhất là trong triều đình, tầng lớp có học và tu sĩ. Dưới triều Koryo (935-1392), trà đạo trở thành quốc đạo. Trà được pha và dâng cúng Phật. Nhưng đến thời Choson (1392-1910), Khổng giáo phát triển mạnh ở Hàn Quốc lấn át hẳn Phật giáo, nên trà đạo mất tính phổ biến và chỉ còn tồn tại trong các chùa thờ Phật.
Nghi thức dùng trà là bắt buộc trước buổi thực tập thiền định vì nó giúp làm đầu óc minh mẫn hơn, nên nó cũng là một cách thư giãn sau giờ lao động, một dịp giao tế xã hội. Trong xã hội hiện đại, uống trà là cách thoát khỏi nhịp sống quay cuồng. Bậc thầy về trà ở Hàn Quốc hiện nay là bà Kam Seung-hee. Bà thành lập Học viện giáo dục trà đạo vào năm 1979 để nghiên cứu bảo tồn lịch sử và phong tục trà đạo và truyền bá nó cho dân chúng.
Trà được uống trong phòng khách yên tĩnh. Người Hàn quốc thường mặc y phục cổ truyền khi uống trà. Nước pha trà là nước suối, nước giếng hoặc nước mưa được đun sôi kỹ trên một bếp lò bằng đồng đặt ngay trong phòng khách. Mỗi khách có một chung uống trà (chung giống như tách nhưng không có quai cầm) đặt trên một dĩa nhỏ bằng gỗ. Am trà và các chung trà được tráng nước sôi để chúng nóng lên. Trong hộp đựng trà có một cái muôi bằng tre để xúc trà cho vào bình. Thông thường mỗi khách được 2 gram trà và một buổi uống trà chỉ có tối đa là bốn người. Nước sau khi sôi, được để nguội bớt, xuống còn khoảng 70 hay 80 độ C, được rót chậm rãi và đều đặn từ ấm vào bình trà. Sau đó đậy nắp bình và chờ khoảng 2 phút.
Tất cả những việc đó gần như là bắt buộc và giữ phần quyết định chất lượng trà, từ nước để pha, lá trà, nhiệt độ, đến thời gian để ra trà. Theo bà Kam, trà chất lượng cao là búp trà được hái vào đầu mùa xuân và được phơi sấy cẩn thận để vẫn giữ được sắc xanh và mềm mại. Tuy nhiên, cũng như Nhật Bản và nhiều nước phương Tây, Hàn Quốc cũng sản xuất thứ trà bột trong gói nhỏ (kiểu trà Lipton) có thêm vitamin C để pha nhanh trong khi làm việc văn phòng. Và uống thứ trà đó thì chẳng nghi thức cầu kỳ gì cả.
Hai phút sau khi pha, bình trà được rót lần lượt từng chút một vào các chung (không phải rót đầy chung này rồi sang chung khác) mà rót làm nhiều lần xoay vòng cho đến khi hết bình. Mục đích của cách rót này là để mỗi khách nhận được một lượng trà với phẩm chất và nồng độ tương đồng nhau. Một bình trà như thế sẽ được châm thêm nước ba lần và mỗi khách được uống ba chung. Chung thứ nhất nhiều mùi hương, chung thứ hai có vị đậm hơn và chung thứ ba cả hương và vị đã dịu và đòi hỏi cảm nhận tinh tế hơn. Trà thường được uống từng ngụm nhỏ, chậm rãi (vì buổi uống trà là lúc không còn thời gian nữa).
Trong thời hiện đại, uống trà để thư giãn, cũng giống như việc tập thể dục để giữ sức khoẻ, vẫn thường bị coi là mất thì giờ. Nhưng thực ra dành cho chúng độ nửa giờ mỗi ngày, có thể bạn sẽ thấy cuộc sống của mình khác đi.
Trà Đạo
Trà đạo được biết đến như một loại nghệ thuật thưởng thức trà. Trong văn hóa Nhật Bản, Trà đạo được phát triển từ khoảng cuối thế kỷ 12.
Theo truyền thuyết Nhật, vào khoảng thời gian đó, có vị cao tăng người Nhật là sư Eisai (1141-1215), sang Trung Hoa để tham vấn học đạo. Khi trở về nước, ngài mang theo một số hạt trà về trồng trong sân chùa. Sau này chính Eisai này đã sáng tác ra cuốn "Khiết Trà Dưỡng Sinh Ký" (Kissa Yojoki), nội dung ghi lại mọi chuyện liên quan tới thú uống trà.

Theo truyền thuyết Nhật, vào khoảng thời gian đó, có vị cao tăng người Nhật là sư Eisai (1141-1215), sang Trung Hoa để tham vấn học đạo. Khi trở về nước, ngài mang theo một số hạt trà về trồng trong sân chùa. Sau này chính Eisai này đã sáng tác ra cuốn "Khiết Trà Dưỡng Sinh Ký" (Kissa Yojoki), nội dung ghi lại mọi chuyện liên quan tới thú uống trà.

Trà đạo được biết đến như một loại nghệ thuật thưởng thức trà. Trong văn hóa Nhật Bản, Trà đạo được phát triển từ khoảng cuối thế kỷ 12.
Theo truyền thuyết Nhật, vào khoảng thời gian đó, có vị cao tăng người Nhật là sư Eisai (1141-1215), sang Trung Hoa để tham vấn học đạo. Khi trở về nước, ngài mang theo một số hạt trà về trồng trong sân chùa. Sau này chính Eisai này đã sáng tác ra cuốn "Khiết Trà Dưỡng Sinh Ký" (Kissa Yojoki), nội dung ghi lại mọi chuyện liên quan tới thú uống trà.
Từ đó, dần dần công dụng giúp thư giãn lẫn tính hấp dẫn đặc biệt của hương vị trà đã thu hút rất nhiều người dân Nhật đến với thú uống trà. Họ đã kết hợp thú uống trà với tinh thần Thiền của Phật giáo để nâng cao nghệ thuật thưởng thức trà, phát triển nghệ thuật này trở thành trà đạo (chado, 茶道), một sản phẩm đặc sắc thuần Nhật.
Từ uống trà, cách uống trà, rồi nghi thức uống trà cho đến trà đạo là một tiến trình không ngưng nghỉ mà cái đích cuối cùng người Nhật muốn hướng tới đó là cải biến tục uống trà du nhập từ ngoại quốc trở thành một tôn giáo trong nghệ thuật sống của chính dân tộc mình, một đạo với ý nghĩa đích thực của từ này. Hiển nhiên ở đây trà đạo, không đơn thuần là con đường, phép tắc uống trà, mà trên hết là một phương tiện hữu hiệu nhằm làm trong sạch tâm hồn bằng cách hòa mình với thiên nhiên, từ đó tu tâm dưỡng tính để đạt giác ngộ.
Khái quát:
Phật giáo thường dùng thuật ngữ " ngón tay chỉ mặt trăng". Suy rộng ra, Trà đạo là con đường mà đi hết con đường đó sẽ đến nơi có rất nhiều "trà ngon".
Cũng như nhiều thứ cần phải rèn luyện học tập, Trà đạo luôn gắn liền với thực hành.
Khác với trông chờ vào đâu đó, Trà đạo thuộc về bên lối sống "tự làm chủ".
Lịch sử:
Giai đoạn 1
Vào thế kỷ thứ 8 - 14 trà bắt đầu được sử dụng phổ biến trong tầng lớp quý tộc. Lúc đó có các cuộc thi đấu đoán tên trà. Văn hóa uống trà giai đoạn đó được coi là những trò chơi xa xỉ và tầng lớp quý tộc rất thích dụng cụ uống trà Trung Quốc.
Giữa cái bối cảnh xô bồ này, một nhà sư tên là Murata Juko đã tìm thấy vẻ đẹp giản dị tồn tại trong văn hóa uống trà. Đến với trà bằng tinh thần của nhà sư, nên Murata Juko rất coi trọng cuộc sống tinh thần. Trà đạo ra đời như thế.
Juko yêu cái đẹp "wabi" và "sabi".Tuy nhiên, trà đạo vẫn còn chưa được nhiều người biết đến. Sau Murata Juko, người kế nghiệp tiếp theo là Takeno Jyoo.
Jyoo quan niệm: "Mặc dù xung quanh chúng ta chẳng có gì cả: không hoa, không lá; nhưng có cảnh hoàng hôn chiều tà với một mái nhà tranh."
Giai đoạn 2
Sau thời Jyoo, đến thế kỷ 16 là thời của Senno Rikyu - Rikiu mới là người đã đưa ra bước ngoặt quan trọng, tạo nên một văn hóa trà đạo trong giới võ sĩ (samurai). Senno Rikyu đã là thày dạy trà đạo cho Oda Nobunaga (Shogun - người đứng đầu giới võ sĩ) của thời Azuchi. Sau khi Oda Nobunaga chết, Toyotomi Hideyoshi lên (thời Momoyama) thì Senno Rikyu tiếp tục dạy cho ông này. Như vậy, hoạt động của Senno Rikyu có tầm ảnh hưởng khá sâu rộng trong tầng lớp võ sĩ, và ảnh hưởng mạnh đến chính trị thời đó.
Đông HonganjiTrong thế kỷ 16, cùng thời với Senrikyu, còn có Yabunnouchi Jyochi, cũng là học trò của Takeno Jyoo. Yabunouchi Jyochi là trà sư tại chùa Honganji, ngôi chùa lớn nhất đất nước Nhật Bản. Yabunouchi chú trọng việc thực hành Trà đạo ở chính nơi bản thân mỗi người.Ngoài ra còn có nhiều trà nhân khác nữa. Mỗi trà nhân đều pha trà theo cách riêng của mình. Nếu các phái (trà) có sự khác nhau thì chỉ khác ở phần bên ngoài của nghi thức pha trà, còn đạo là duy nhất.
Giai đoạn 3
Trà đạo trong thời hội nhậpTrà đạo hiện nay cũng dần được biến đổi, trong mỗi phòng trà đều có một số bàn ghế gỗ cho khách ngồi.Nếu như khách không thể quen với kiểu ngồi truyền thống của Nhật thì sự biến đổi nói trên cho phép người phương Tây với thói quen hiện đại cũng có thể tham gia được những buổi trà đạo mà không hề làm mất đi không khí tôn nghiêm trong phòng uống trà.Dần dần, trà đạo được đưa vào phòng khách theo phong cách phương Tây. Người đến không cần phải gò bó theo kiểu ngồi hay cách uống trà của người Nhật vẫn có thể mặc áo theo kiểu Tây phương.
Trà thất
Bên trong một Trà thấtTrà thất là một căn phòng nhỏ dành riêng cho việc uống trà, nó còn được gọi là "nhà không".Đó là một căn nhà mỏng manh với một mái tranh đơn sơ ẩn sau một khu vườn. Cảnh sắc trong vườn không loè loẹt mà chỉ có màu nhạt, gợi lên sự tĩnh lặng.Trong khu vườn nhỏ có thể bố trí một vài nét chấm phá để tạo nên một ấn tượng về một miền thung lũng hay cảnh núi non cô tịch, thanh bình.Nó như một bức tranh thủy mặc gợi lên bầu không khí mà Kobiri Emshiu đã tả:Một chòm cây mùa hạ,một nét biển xa,một vừng trăng chiếu mờ nhạt.Trên con đường dẫn đến trà thất, có một tảng đá lớn, mặt tảng đá được khoét thành một cái chén đựng đầy nước từ một cành tre rót xuống. Ở đây người ta "rửa tay" trước khi vào ngôi nhà nằm ở cuối con đường, chỗ tịch liêu nhất:Tôi nhìn ra,không có hoa,cũng không có lá.Trên bờ biển,một chòi tranh đứng trơ trọi,trong ánh nắng nhạt chiều thu.Ngôi nhà uống trà làm bằng những nguyên liệu mong manh làm cho ta nghĩ đến cái vô thường và trống rỗng của mọi sự. Không có một vẻ gì là chắc chắn hay cân đối trong lối kiến trúc, vì đối với thiền, sự cân đối là chết, là thiếu tự nhiên, nó quá toàn bích không còn chỗ nào cho sự phát triển và đổi thay. Điều thiết yếu là ngôi trà thất phải hòa nhịp với cảnh vật chung quanh, tự nhiên như cây cối và những tảng đá.Tập tin:Sword1 Tachi.jpg150pxLối vào nhà nhỏ và thấp đến nỗi người nào bước vào nhà cần phải cúi đầu xuống trong vẻ khiêm cung, trong khi người võ sĩ đạo thì phải để lại bên ngoài cây kiếm dài.Ngay trong phòng trà cũng ngự trị một bầu không khí lặng lẽ cô tịch, không có màu sắc rực rỡ, chỉ có màu vàng nhạt của tấm thảm rơm và màu tro nhạt của những bức vách bằng giấy.
Tokonoma
Tokonoma là một góc phòng được trang trí và hơi thụt vào trong so với vách tường. Tokonoma là một trong bốn nhân tố thiết yếu tạo nên phòng khách chính của một căn nhà. Bản thân từ "tokonoma" ám chỉ góc phòng thụt vào hoặc căn phòng có góc như nó.Có một vài dấu hiệu để biết đâu là tokonoma. Thông thường, có một khu vực để treo tranh hoặc một bức thư pháp. Hay có một cái giá nhỏ để đặt hoa, có thể là một chiếc bình, có thể nhìn thấy một hộp hương trầm.Một gia đình truyền thống Nhật có nhiều cuộn giấy và các vật dụng khác mà họ trưng bày ở tokonoma tuỳ từng mùa hoặc ngày lễ gần nhất.Khi bước vào một trà thất, người ta thường quỳ và ngắm tokonoma một lát. Cũng có thể xem các vật được trưng bày.Thiền gây ảnh hưởng đến tokonoma lẫn chabana... chỉ khi chúng ta chú tâm đến những chi tiết nhỏ bé trong cuộc sống thì mới thấy vẻ đẹp trong những điều giản dị.
Chabana
Chabana (茶花) là phong cách cắm hoa đơn giản mà thanh lịch của Trà đạo, có nguồn gốc sâu xa từ việc nghi thức hóa Ikebana. Cha, theo nghĩa đen, là "trà" và ban, biến âm của từ hana, có nghĩa là "hoa".Phong cách của chabana là không có bất kỳ qui tắc chính thức nào để trở thành chuẩn mực cho nghệ thuật cắm hoa trong trà thất.Hoa thể hiện tình cảm của chủ nhà trong một buổi tiệc trà. Hoa được cắm trong một chiếc bình hoặc một cái lọ mộc mạc với phong cách thay đổi theo mùa.Lọ hoa có thể được làm từ bất kỳ chất liệu nào, từ đồng, gốm tráng men hoặc không tráng men, cho đến tre, thuỷ tinh và các vật liệu khác.Khi cắm hoa cho một bữa tiệc trà, đầu tiên chủ nhà phải chọn hoa và lọ tương ứng. Hoa trong phòng trà gợi được cho người ngắm cảm giác như đang đứng giữa khu vườn tự nhiên.
Kakejiku
Kakejiku tạm hiểu chỉ là một tấm vải trống trơn, nó có thể cuộn vào trốn đi uống bia, hoặc mở ra để treo trên vách tường tokonoma. Lúc thì gắn vào Kakejiku một bức tranh nhỏ, lúc khác một bức thư pháp hoặc là sự kết hợp cả tranh và chữ (thư họa). Những nội dung khi xuất hiện trên Kakejiku thường mang ý nghĩa sâu xa, có thể là một công án Thiền tông, ... Chẳng hạn, một câu nói đã được nhắc đến nhiều trong Thiền:"Bình thường tâm thị đạo",hoặc một câu văn dường như là riêng biệt của Trà đạo:" Nhất kỳ Nhất hội",hay đơn giản chỉ là một chữ"Vô".
Các đạo cụ được sử dụng trong Trà Đạo
Để có thể thực hiện được một nghi thức Trà Đạo, người hành lễ cần phải có đầy đủ các yếu tố sau:
Trà Thất: Là một căn phòng có kích thước nhỏ nhất khoảng 3x3m. Trong phòng có trải những tấm tatami hay chiếu tre được sắp xếp thành hình vuông bởi 8 mảnh 0.75x1.5m, trông rất đẹp và trang nhã.
Cách bày trí các đạo cụ trong Trà Thất:
Tranh, thơ, câu liễn: Là những bức tranh về phong cảnh thiên nhiên hay những bài thơ, câu liễn được treo, dán trong Trà Thất. Nó sẽ làm tăng thêm phần trang trọng cho Trà Thất. Hoa: Thường được cắm trong bình, lọ hay dĩa nhỏ, được đặt ở giữa phòng hay đặt dưới bức tranh trong phòng. Nó có tác dụng làm cho căn phòng thêm sinh động, tạo cảm giác thoải mái, gần gũi với thiên nhiên cho người tham gia.
Lư trầm: Được đặt ở góc phòng hay dưới bức tranh hoặc giữa phòng. Nhưng thường lư trầm được đặt ở góc phòng. Trầm hương có tác dụng làm cho căn phòng có được mùi hương thoang thoảng phảng phất nhẹ nhàng, khiến cho mọi người được thư giãn tinh thần, thoải mái dễ chịu. Các đạo cụ trên được xếp rất gọn gàng, không chiếm diện tích của phòng trà, tạo sự cân bằng, hòa hợp theo phong thủy.
Trà Viên: Là một khu vườn được thiết kế phù hợp với việc ngắm hoa, và thưởng thức trà. Nhưng loại hình này ít được thông dụng như Trà Thất bởi tính cầu kỳ của nó đòi hỏi cách bày trí khu vườn thật khéo, làm sao cho khu vườn vẫn còn được nét tự nhiên để người tham gia Trà Đạo không có cảm giác bị rơi vào một cảnh giả do bàn tay con người tạo ra. Trong Trà Viên thì ít khi có các tấm chiếu hay thảm vì mọi người thường ngồi trên thảm cỏ trong vườn.
Cách bày trí đạo cụ trong Trà Viên:Hoa, Lư Trầm: Thường được đặt ở giữa chỗ ngồi họp nhóm của những người tham gia. Trong vườn thì có các loài cây như: Hoa anh đào, hoa mai, hoa mơ, tùng, liễu. Những loài cây này dễ tạo cảm hứng thi phú cho người xem trong quá trình đàm Đạo, đối ẩm. Bên cạnh đó là các hòn non bộ, những tảng đá lớn, chậu nước cũng được sắp xếp theo bố cục chặt chẽ, thể hiện sự cân đối Âm – Dương trong phong thủy.
Những đạo cụ dùng trong việc pha chế và thưởng thức trà
Trà: tùy theo hệ phái nào mà trà được sử dụng có sự khác biệt.
Maccha (まっちゃ): trà bột. Người ta hái những lá trà non đem đi rửa sạch, phơi ráo nước và xay nhuyễn thành bột. Vì thế trà có màu xanh tươi và độ ẩm nhất định chứ không khô như các loại trà lá. Khi uống, bột trà được đánh tan với nưới sôi.Trà nguyên lá: chỉ lấy nước tinh chất từ lá trà. Lá trà được phơi khô, pha chế trong bình trà, lấy tinh chất, bỏ xác. Thường sử dụng loại trà cho nước màu vàng tươi hay màu xanh nhẹ.
Phụ liệu: ngoài nguyên liệu chính là trà bột hay trà lá, người pha chế còn cho thêm một số thảo dược, các loại củ quả phơi khô, đậu để làm tăng thêm hương vị cho chén trà, hay quan trọng hơn là mang tính trị liệu, rất có lợi cho sức khỏe, giúp người bệnh mau hồi phục thể chất lẫn tinh thần.Nước pha trà: thường là nước suối, nước giếng, nước mưa, hay nước đã qua khâu tinh lọc.
Ấm nước (お釜): dùng đun nước sôi để pha trà, thường được làm bằng đồng để giữ độ nóng cao.
Lò nấu nước (焜炉): bếp lò bằng đồng thường dùng than để nấu. Nhưng ngày nay người Nhật đã thay than bằng một bếp điện để bên trong lò đồng
Hũ đựng nước (水差し): dùng để đựng nước lạnh khi pha trà.
Chén trà (茶碗): chén dùng để dựng trà cho khách thưởng thức. Chén được làm bằng men, công phu, tỉ mỉ và mỗi chén có những họa tiết độc đáo riêng. Vì thế mà trong khi làm một buổi tiệc trà, không có hai chén trà giống nhau. Các nghê nhân làm chén cũng đưa chủ đề thiên nhiên, thời tiết vào trong tác phẩm của mình, vậy nên có thể dùng chén phù hợp cho 4 mùa: xuân, hạ, thu, đông.
Mùa xuân: chén có những hoa văn mùa xuân như hoa anh đào.Mùa hạ: là mùa nóng nên chén trà có độ cao thấp hơn, miệng rộng hơn chén trà mùa xuân để dễ thoát hơi nóng.Mùa thu: chén có hình dạng giống chén mùa xuân, có hoa văn đặc trưng cho mùa thu như lá phong, lá momizi.Mùa đông: là mùa lạnh nên chén có độ dày và cao hơn các chén mùa khác để giữ nóng lâu hơn. Màu sắc của men cũng mang gam màu lạnh.Kensui (建水): chậu đựng nước rửa chén khi pha trà, được làm bằng men và to hơn chén trà một chút.
Hũ, lọ đựng trà (なつめ): hủ,lọ dùng để đựng trà bột, được trang trí họa tiết rất đẹp, gần gũi với cuộc sống sinh hoạt nhưng cũng mang tính thẫm mĩ cao. Trên nắp hũ, đôi khi bắt gặp hình quạt giấy, hình hoa lá, tre, trúc,...
Khăn fukusa (ふくさ): khăn lau hủ,lọ trà và muỗng trà khi pha trà.
Khăn chakin (茶巾): khăn lau chén trà khi pha trà, được làm bằng vải mùng màu trắng.
Khăn kobukusa ((こぶくさ): khăn dùng để kê chén trà. Khi đem trà cho khách thưởng thức, dùng khăn để lên tay, sau đó đặt chén trà lên để giảm bớt độ nóng từ chén trà xuống tay, sau đó mang chén trà cho khách.Muỗng múc trà (茶杓): chiếc muỗng bằng tre, dài, một đầu uốn cong để múc trà.Gáo múc nước: chiếc gáo bằng tre, nhỏ, dài để múc nước từ trong ấm nước, hủ đựng nước ra chén trà.
Cây đánh trà (茶筅): dùng để đánh tan trà với nước sôi. Được làm từ tre, ống tre được chẻ nhỏ một đầu thành nhiều cọng tre có kích thước nhỏ khoảng 1mm.
Bình trà: để pha trà láTách trà nhỏ: để thưởng thức loại trà lá.Bánh ngọt: dùng bánh trước khi uống trà sẽ làm cho khách cảm nhận hương vị đậm đà đặc sắc của trà.
Theo truyền thuyết Nhật, vào khoảng thời gian đó, có vị cao tăng người Nhật là sư Eisai (1141-1215), sang Trung Hoa để tham vấn học đạo. Khi trở về nước, ngài mang theo một số hạt trà về trồng trong sân chùa. Sau này chính Eisai này đã sáng tác ra cuốn "Khiết Trà Dưỡng Sinh Ký" (Kissa Yojoki), nội dung ghi lại mọi chuyện liên quan tới thú uống trà.
Từ đó, dần dần công dụng giúp thư giãn lẫn tính hấp dẫn đặc biệt của hương vị trà đã thu hút rất nhiều người dân Nhật đến với thú uống trà. Họ đã kết hợp thú uống trà với tinh thần Thiền của Phật giáo để nâng cao nghệ thuật thưởng thức trà, phát triển nghệ thuật này trở thành trà đạo (chado, 茶道), một sản phẩm đặc sắc thuần Nhật.
Từ uống trà, cách uống trà, rồi nghi thức uống trà cho đến trà đạo là một tiến trình không ngưng nghỉ mà cái đích cuối cùng người Nhật muốn hướng tới đó là cải biến tục uống trà du nhập từ ngoại quốc trở thành một tôn giáo trong nghệ thuật sống của chính dân tộc mình, một đạo với ý nghĩa đích thực của từ này. Hiển nhiên ở đây trà đạo, không đơn thuần là con đường, phép tắc uống trà, mà trên hết là một phương tiện hữu hiệu nhằm làm trong sạch tâm hồn bằng cách hòa mình với thiên nhiên, từ đó tu tâm dưỡng tính để đạt giác ngộ.
Khái quát:
Phật giáo thường dùng thuật ngữ " ngón tay chỉ mặt trăng". Suy rộng ra, Trà đạo là con đường mà đi hết con đường đó sẽ đến nơi có rất nhiều "trà ngon".
Cũng như nhiều thứ cần phải rèn luyện học tập, Trà đạo luôn gắn liền với thực hành.
Khác với trông chờ vào đâu đó, Trà đạo thuộc về bên lối sống "tự làm chủ".
Lịch sử:
Giai đoạn 1
Vào thế kỷ thứ 8 - 14 trà bắt đầu được sử dụng phổ biến trong tầng lớp quý tộc. Lúc đó có các cuộc thi đấu đoán tên trà. Văn hóa uống trà giai đoạn đó được coi là những trò chơi xa xỉ và tầng lớp quý tộc rất thích dụng cụ uống trà Trung Quốc.
Giữa cái bối cảnh xô bồ này, một nhà sư tên là Murata Juko đã tìm thấy vẻ đẹp giản dị tồn tại trong văn hóa uống trà. Đến với trà bằng tinh thần của nhà sư, nên Murata Juko rất coi trọng cuộc sống tinh thần. Trà đạo ra đời như thế.
Juko yêu cái đẹp "wabi" và "sabi".Tuy nhiên, trà đạo vẫn còn chưa được nhiều người biết đến. Sau Murata Juko, người kế nghiệp tiếp theo là Takeno Jyoo.
Jyoo quan niệm: "Mặc dù xung quanh chúng ta chẳng có gì cả: không hoa, không lá; nhưng có cảnh hoàng hôn chiều tà với một mái nhà tranh."
Giai đoạn 2
Sau thời Jyoo, đến thế kỷ 16 là thời của Senno Rikyu - Rikiu mới là người đã đưa ra bước ngoặt quan trọng, tạo nên một văn hóa trà đạo trong giới võ sĩ (samurai). Senno Rikyu đã là thày dạy trà đạo cho Oda Nobunaga (Shogun - người đứng đầu giới võ sĩ) của thời Azuchi. Sau khi Oda Nobunaga chết, Toyotomi Hideyoshi lên (thời Momoyama) thì Senno Rikyu tiếp tục dạy cho ông này. Như vậy, hoạt động của Senno Rikyu có tầm ảnh hưởng khá sâu rộng trong tầng lớp võ sĩ, và ảnh hưởng mạnh đến chính trị thời đó.
Đông HonganjiTrong thế kỷ 16, cùng thời với Senrikyu, còn có Yabunnouchi Jyochi, cũng là học trò của Takeno Jyoo. Yabunouchi Jyochi là trà sư tại chùa Honganji, ngôi chùa lớn nhất đất nước Nhật Bản. Yabunouchi chú trọng việc thực hành Trà đạo ở chính nơi bản thân mỗi người.Ngoài ra còn có nhiều trà nhân khác nữa. Mỗi trà nhân đều pha trà theo cách riêng của mình. Nếu các phái (trà) có sự khác nhau thì chỉ khác ở phần bên ngoài của nghi thức pha trà, còn đạo là duy nhất.
Giai đoạn 3
Trà đạo trong thời hội nhậpTrà đạo hiện nay cũng dần được biến đổi, trong mỗi phòng trà đều có một số bàn ghế gỗ cho khách ngồi.Nếu như khách không thể quen với kiểu ngồi truyền thống của Nhật thì sự biến đổi nói trên cho phép người phương Tây với thói quen hiện đại cũng có thể tham gia được những buổi trà đạo mà không hề làm mất đi không khí tôn nghiêm trong phòng uống trà.Dần dần, trà đạo được đưa vào phòng khách theo phong cách phương Tây. Người đến không cần phải gò bó theo kiểu ngồi hay cách uống trà của người Nhật vẫn có thể mặc áo theo kiểu Tây phương.
Trà thất
Bên trong một Trà thấtTrà thất là một căn phòng nhỏ dành riêng cho việc uống trà, nó còn được gọi là "nhà không".Đó là một căn nhà mỏng manh với một mái tranh đơn sơ ẩn sau một khu vườn. Cảnh sắc trong vườn không loè loẹt mà chỉ có màu nhạt, gợi lên sự tĩnh lặng.Trong khu vườn nhỏ có thể bố trí một vài nét chấm phá để tạo nên một ấn tượng về một miền thung lũng hay cảnh núi non cô tịch, thanh bình.Nó như một bức tranh thủy mặc gợi lên bầu không khí mà Kobiri Emshiu đã tả:Một chòm cây mùa hạ,một nét biển xa,một vừng trăng chiếu mờ nhạt.Trên con đường dẫn đến trà thất, có một tảng đá lớn, mặt tảng đá được khoét thành một cái chén đựng đầy nước từ một cành tre rót xuống. Ở đây người ta "rửa tay" trước khi vào ngôi nhà nằm ở cuối con đường, chỗ tịch liêu nhất:Tôi nhìn ra,không có hoa,cũng không có lá.Trên bờ biển,một chòi tranh đứng trơ trọi,trong ánh nắng nhạt chiều thu.Ngôi nhà uống trà làm bằng những nguyên liệu mong manh làm cho ta nghĩ đến cái vô thường và trống rỗng của mọi sự. Không có một vẻ gì là chắc chắn hay cân đối trong lối kiến trúc, vì đối với thiền, sự cân đối là chết, là thiếu tự nhiên, nó quá toàn bích không còn chỗ nào cho sự phát triển và đổi thay. Điều thiết yếu là ngôi trà thất phải hòa nhịp với cảnh vật chung quanh, tự nhiên như cây cối và những tảng đá.Tập tin:Sword1 Tachi.jpg150pxLối vào nhà nhỏ và thấp đến nỗi người nào bước vào nhà cần phải cúi đầu xuống trong vẻ khiêm cung, trong khi người võ sĩ đạo thì phải để lại bên ngoài cây kiếm dài.Ngay trong phòng trà cũng ngự trị một bầu không khí lặng lẽ cô tịch, không có màu sắc rực rỡ, chỉ có màu vàng nhạt của tấm thảm rơm và màu tro nhạt của những bức vách bằng giấy.
Tokonoma
Tokonoma là một góc phòng được trang trí và hơi thụt vào trong so với vách tường. Tokonoma là một trong bốn nhân tố thiết yếu tạo nên phòng khách chính của một căn nhà. Bản thân từ "tokonoma" ám chỉ góc phòng thụt vào hoặc căn phòng có góc như nó.Có một vài dấu hiệu để biết đâu là tokonoma. Thông thường, có một khu vực để treo tranh hoặc một bức thư pháp. Hay có một cái giá nhỏ để đặt hoa, có thể là một chiếc bình, có thể nhìn thấy một hộp hương trầm.Một gia đình truyền thống Nhật có nhiều cuộn giấy và các vật dụng khác mà họ trưng bày ở tokonoma tuỳ từng mùa hoặc ngày lễ gần nhất.Khi bước vào một trà thất, người ta thường quỳ và ngắm tokonoma một lát. Cũng có thể xem các vật được trưng bày.Thiền gây ảnh hưởng đến tokonoma lẫn chabana... chỉ khi chúng ta chú tâm đến những chi tiết nhỏ bé trong cuộc sống thì mới thấy vẻ đẹp trong những điều giản dị.
Chabana
Chabana (茶花) là phong cách cắm hoa đơn giản mà thanh lịch của Trà đạo, có nguồn gốc sâu xa từ việc nghi thức hóa Ikebana. Cha, theo nghĩa đen, là "trà" và ban, biến âm của từ hana, có nghĩa là "hoa".Phong cách của chabana là không có bất kỳ qui tắc chính thức nào để trở thành chuẩn mực cho nghệ thuật cắm hoa trong trà thất.Hoa thể hiện tình cảm của chủ nhà trong một buổi tiệc trà. Hoa được cắm trong một chiếc bình hoặc một cái lọ mộc mạc với phong cách thay đổi theo mùa.Lọ hoa có thể được làm từ bất kỳ chất liệu nào, từ đồng, gốm tráng men hoặc không tráng men, cho đến tre, thuỷ tinh và các vật liệu khác.Khi cắm hoa cho một bữa tiệc trà, đầu tiên chủ nhà phải chọn hoa và lọ tương ứng. Hoa trong phòng trà gợi được cho người ngắm cảm giác như đang đứng giữa khu vườn tự nhiên.
Kakejiku
Kakejiku tạm hiểu chỉ là một tấm vải trống trơn, nó có thể cuộn vào trốn đi uống bia, hoặc mở ra để treo trên vách tường tokonoma. Lúc thì gắn vào Kakejiku một bức tranh nhỏ, lúc khác một bức thư pháp hoặc là sự kết hợp cả tranh và chữ (thư họa). Những nội dung khi xuất hiện trên Kakejiku thường mang ý nghĩa sâu xa, có thể là một công án Thiền tông, ... Chẳng hạn, một câu nói đã được nhắc đến nhiều trong Thiền:"Bình thường tâm thị đạo",hoặc một câu văn dường như là riêng biệt của Trà đạo:" Nhất kỳ Nhất hội",hay đơn giản chỉ là một chữ"Vô".
Các đạo cụ được sử dụng trong Trà Đạo
Để có thể thực hiện được một nghi thức Trà Đạo, người hành lễ cần phải có đầy đủ các yếu tố sau:
Trà Thất: Là một căn phòng có kích thước nhỏ nhất khoảng 3x3m. Trong phòng có trải những tấm tatami hay chiếu tre được sắp xếp thành hình vuông bởi 8 mảnh 0.75x1.5m, trông rất đẹp và trang nhã.
Cách bày trí các đạo cụ trong Trà Thất:
Tranh, thơ, câu liễn: Là những bức tranh về phong cảnh thiên nhiên hay những bài thơ, câu liễn được treo, dán trong Trà Thất. Nó sẽ làm tăng thêm phần trang trọng cho Trà Thất. Hoa: Thường được cắm trong bình, lọ hay dĩa nhỏ, được đặt ở giữa phòng hay đặt dưới bức tranh trong phòng. Nó có tác dụng làm cho căn phòng thêm sinh động, tạo cảm giác thoải mái, gần gũi với thiên nhiên cho người tham gia.
Lư trầm: Được đặt ở góc phòng hay dưới bức tranh hoặc giữa phòng. Nhưng thường lư trầm được đặt ở góc phòng. Trầm hương có tác dụng làm cho căn phòng có được mùi hương thoang thoảng phảng phất nhẹ nhàng, khiến cho mọi người được thư giãn tinh thần, thoải mái dễ chịu. Các đạo cụ trên được xếp rất gọn gàng, không chiếm diện tích của phòng trà, tạo sự cân bằng, hòa hợp theo phong thủy.
Trà Viên: Là một khu vườn được thiết kế phù hợp với việc ngắm hoa, và thưởng thức trà. Nhưng loại hình này ít được thông dụng như Trà Thất bởi tính cầu kỳ của nó đòi hỏi cách bày trí khu vườn thật khéo, làm sao cho khu vườn vẫn còn được nét tự nhiên để người tham gia Trà Đạo không có cảm giác bị rơi vào một cảnh giả do bàn tay con người tạo ra. Trong Trà Viên thì ít khi có các tấm chiếu hay thảm vì mọi người thường ngồi trên thảm cỏ trong vườn.
Cách bày trí đạo cụ trong Trà Viên:Hoa, Lư Trầm: Thường được đặt ở giữa chỗ ngồi họp nhóm của những người tham gia. Trong vườn thì có các loài cây như: Hoa anh đào, hoa mai, hoa mơ, tùng, liễu. Những loài cây này dễ tạo cảm hứng thi phú cho người xem trong quá trình đàm Đạo, đối ẩm. Bên cạnh đó là các hòn non bộ, những tảng đá lớn, chậu nước cũng được sắp xếp theo bố cục chặt chẽ, thể hiện sự cân đối Âm – Dương trong phong thủy.
Những đạo cụ dùng trong việc pha chế và thưởng thức trà
Trà: tùy theo hệ phái nào mà trà được sử dụng có sự khác biệt.
Maccha (まっちゃ): trà bột. Người ta hái những lá trà non đem đi rửa sạch, phơi ráo nước và xay nhuyễn thành bột. Vì thế trà có màu xanh tươi và độ ẩm nhất định chứ không khô như các loại trà lá. Khi uống, bột trà được đánh tan với nưới sôi.Trà nguyên lá: chỉ lấy nước tinh chất từ lá trà. Lá trà được phơi khô, pha chế trong bình trà, lấy tinh chất, bỏ xác. Thường sử dụng loại trà cho nước màu vàng tươi hay màu xanh nhẹ.
Phụ liệu: ngoài nguyên liệu chính là trà bột hay trà lá, người pha chế còn cho thêm một số thảo dược, các loại củ quả phơi khô, đậu để làm tăng thêm hương vị cho chén trà, hay quan trọng hơn là mang tính trị liệu, rất có lợi cho sức khỏe, giúp người bệnh mau hồi phục thể chất lẫn tinh thần.Nước pha trà: thường là nước suối, nước giếng, nước mưa, hay nước đã qua khâu tinh lọc.
Ấm nước (お釜): dùng đun nước sôi để pha trà, thường được làm bằng đồng để giữ độ nóng cao.
Lò nấu nước (焜炉): bếp lò bằng đồng thường dùng than để nấu. Nhưng ngày nay người Nhật đã thay than bằng một bếp điện để bên trong lò đồng
Hũ đựng nước (水差し): dùng để đựng nước lạnh khi pha trà.
Chén trà (茶碗): chén dùng để dựng trà cho khách thưởng thức. Chén được làm bằng men, công phu, tỉ mỉ và mỗi chén có những họa tiết độc đáo riêng. Vì thế mà trong khi làm một buổi tiệc trà, không có hai chén trà giống nhau. Các nghê nhân làm chén cũng đưa chủ đề thiên nhiên, thời tiết vào trong tác phẩm của mình, vậy nên có thể dùng chén phù hợp cho 4 mùa: xuân, hạ, thu, đông.
Mùa xuân: chén có những hoa văn mùa xuân như hoa anh đào.Mùa hạ: là mùa nóng nên chén trà có độ cao thấp hơn, miệng rộng hơn chén trà mùa xuân để dễ thoát hơi nóng.Mùa thu: chén có hình dạng giống chén mùa xuân, có hoa văn đặc trưng cho mùa thu như lá phong, lá momizi.Mùa đông: là mùa lạnh nên chén có độ dày và cao hơn các chén mùa khác để giữ nóng lâu hơn. Màu sắc của men cũng mang gam màu lạnh.Kensui (建水): chậu đựng nước rửa chén khi pha trà, được làm bằng men và to hơn chén trà một chút.
Hũ, lọ đựng trà (なつめ): hủ,lọ dùng để đựng trà bột, được trang trí họa tiết rất đẹp, gần gũi với cuộc sống sinh hoạt nhưng cũng mang tính thẫm mĩ cao. Trên nắp hũ, đôi khi bắt gặp hình quạt giấy, hình hoa lá, tre, trúc,...
Khăn fukusa (ふくさ): khăn lau hủ,lọ trà và muỗng trà khi pha trà.
Khăn chakin (茶巾): khăn lau chén trà khi pha trà, được làm bằng vải mùng màu trắng.
Khăn kobukusa ((こぶくさ): khăn dùng để kê chén trà. Khi đem trà cho khách thưởng thức, dùng khăn để lên tay, sau đó đặt chén trà lên để giảm bớt độ nóng từ chén trà xuống tay, sau đó mang chén trà cho khách.Muỗng múc trà (茶杓): chiếc muỗng bằng tre, dài, một đầu uốn cong để múc trà.Gáo múc nước: chiếc gáo bằng tre, nhỏ, dài để múc nước từ trong ấm nước, hủ đựng nước ra chén trà.
Cây đánh trà (茶筅): dùng để đánh tan trà với nước sôi. Được làm từ tre, ống tre được chẻ nhỏ một đầu thành nhiều cọng tre có kích thước nhỏ khoảng 1mm.
Bình trà: để pha trà láTách trà nhỏ: để thưởng thức loại trà lá.Bánh ngọt: dùng bánh trước khi uống trà sẽ làm cho khách cảm nhận hương vị đậm đà đặc sắc của trà.
Trà Kinh có phải là chuẩn mực ?

Cuốn Trà Kinh của Lục Vũ Đời Nhà Đường, thế kỷ thứ VIII (728-804) chỉ có vài chục trang, vốn được coi là cuốn bách khoa tự điển về trà Trung Hoa đầu tiên trên thế giới. Lục Vũ được tôn vinh là Trà thánh Trung Hoa, vì đã có công sưu tầm về công nghệ trà Trung Hoa đương thời tương đối hoàn chỉnh gồm 10 Chương và 9 Điều uống trà.

Cuốn Trà Kinh của Lục Vũ Đời Nhà Đường, thế kỷ thứ VIII (728-804) chỉ có vài chục trang, vốn được coi là cuốn bách khoa tự điển về trà Trung Hoa đầu tiên trên thế giới. Lục Vũ được tôn vinh là Trà thánh Trung Hoa, vì đã có công sưu tầm về công nghệ trà Trung Hoa đương thời tương đối hoàn chỉnh gồm 10 Chương và 9 Điều uống trà.
Nhưng trình độ khoa học thời đó còn hạn chế và những thông tin chỉ bó hẹp trong nước Trung Hoa cổ đại. Tuy nhiên đã có bản đồ phân bố cây chè Đời Nhà Đường, ghi nhận cây chè đã có ở đạo (tỉnh) Giao Chỉ tại miền bắc Việt Nam ngày nay vốn là thuộc địa cũ của Nhà Đường. Do đó có căn cứ để nói cây chè Việt Nam nằm trong vùng nguyên sản cây chè thế giới, mà nhà bác học Lê Quý Đôn đã ghi chép trong cuốn Vân Đài loại ngữ năm 1773, Đời Hậu Lê.
Cuốn Trà Kinh của Giáo sư Trần Tông Mâu chủ biên cùng với 83 giáo sư tiến sỹ dày 786 trang xuất bản năm 1991, là một công tình tập thể đồ sộ về khoa học văn hóa trà còn ít biêt đến ở Việt Nam. Gồm 6 Chương:
10 chương Trà Kinh và 9 chữ trong cách uống trà Trung Quốc
Khi đọc bài “Lục Vũ: “Trà thần” Trung Quốc” của Jerry Love. Thầy muốn góp tài liệu về cuốn Trà Kinh của Lục Vũ với Jerry Love. Nhưng khi comment thì nó dài quá, nên thầy viết riêng một bài mới tại đây.
Tài liệu này Thầy nói tóm lược 10 chương của cuốn sách và cách uống trà 9 chữ cổ điển Trung Quốc thời Lục Vũ – Nhà Đường.
Thân thế và sự nghiệp Lục Vũ
Lục Vũ (728-804) tự Lục hồng Tiệm, một danh y thời Nhà Đường, là người huyện Thiên Môn, tỉnh Hồ Bắc. Thời niên thiếu ông ở trong một nhà chùa Phật giáo. Dưới thời trị vì của Hoàng đế Lý Long Chi, còn gọi là Đường minh Hoàng (712-755), tỉnh Long Trưởng, nơi mà Lục Vũ sinh ra, đã phát hiện tài năng của ông và giúp ông được vào trường học. Ông là người thực sự có tài, học hành chăm chỉ và được xã hội biết tiếng rất nhanh, nên được bổ nhiệm dạy học Hoàng Thái tử. Sau lại được tiến cử vào làm việc cho Thượng thư Bộ Lễ, nhưng ông không nhận.
Lục Vũ từ chối con đường làm quan, ham học tập, nghiên cứu và giao dịch với giới trí thức, văn nhân. Ông rất yêu thích cây chè, nghiên cứu thực tiễn cây chè một cách bền bỉ không mệt mỏi, nên rất thành thạo về gieo trồng, chọn giống, chế biến và uống trà.
10 chương của Trà Kinh
Năm 760, Lục Vũ quen sống cuộc đời ẩn dật của một nhà văn hoá ở Thiệu khê, Hồ châu, tỉnh Chiết giang và đã biên soạn cuốn “ Trà kinh ”, đến nay là cuốn chuyên khảo đầu tiên về chè trên thế giới. Cuốn sách chia thành 10 mục :
Cuốn “ Trà kinh ” là cuốn sách Bách khoa toàn thư về chè lâu đời nhất từ đời Nhà Đường và có ảnh hưởng sâu xa, rộng lớn đến các đời sau này. Hiện nay, tại quê hương Lục Vũ, nhân dân đã xây dựng một nhà bảo tàng kỷ niệm Lục Vũ, để ghi nhớ đến người đã có cống hiến lớn cho văn hoá và lịch sử chè Trung Quốc. Ngoài ra còn dựng một tượng đồng Lục Vũ đang ngồi uống một chén chè tại quê hương Thiên Môn của ông.
9 chữ trong cách pha và uống trà cổ điển của Trung Hoa thời Lục Vũ (Nhà Đường).
Lục Vũ, người Trung Hoa thời Nhà Đường, đã tổng kết lần đầu tiên trên thế giới cách uống trà trong cuốn Trà Kinh thành “ cửu đạo trà “, làm cơ sở cho cách uống trà ngày nay, bao gồm 9 chữ : phẩm, ôn, đầu, trúng, mân, phục, chân, kính, ẩm.
• Phẩm : đánh giá phẩm chất trà bằng ngoại hình trà khô.
• Ôn : dùng nước sôi rửa sạch sẽ ấm chén pha trà, để tăng nhiệt độ nhằm chiết xuất tối đa các thành phần hữu hiệu của trà.
• Đầu : bốc một lượng trà thích đáng vào trong ấm, không quá nhiều hay quá ít, căn cứ vào loại trà và sở thích của khách uông trà.
• Trúng : pha nước sôi ít một, không đổ đầy ngay cả ấm một lần.
• Mân : hãm nước sôi đậy nắp kín, 1 – 2’ để cho cánh trà nở ra.
• Phục : lại tiếp tục pha nước sôi đầy ấm, để chiết xuất tối đa các thành phần hữu hiệu.
• Chân : rót nước trà trong ấm pha vào chén uống trà.
• Kính : dâng chén trà một cách kính cẩn mời khách uống.
• Ẩm : vừa uống vừa thưởng thức hương vị, vừa khen thơm ngon.
Nhưng trình độ khoa học thời đó còn hạn chế và những thông tin chỉ bó hẹp trong nước Trung Hoa cổ đại. Tuy nhiên đã có bản đồ phân bố cây chè Đời Nhà Đường, ghi nhận cây chè đã có ở đạo (tỉnh) Giao Chỉ tại miền bắc Việt Nam ngày nay vốn là thuộc địa cũ của Nhà Đường. Do đó có căn cứ để nói cây chè Việt Nam nằm trong vùng nguyên sản cây chè thế giới, mà nhà bác học Lê Quý Đôn đã ghi chép trong cuốn Vân Đài loại ngữ năm 1773, Đời Hậu Lê.
Cuốn Trà Kinh của Giáo sư Trần Tông Mâu chủ biên cùng với 83 giáo sư tiến sỹ dày 786 trang xuất bản năm 1991, là một công tình tập thể đồ sộ về khoa học văn hóa trà còn ít biêt đến ở Việt Nam. Gồm 6 Chương:
- Lịch sử
- Đặc tính sinh vật học cây chè
- Phân loại trà chế biến
- Kỹ thuật trồng chè, chế biến trà, thử nếm trà, bao bì, bảo quản trà
- Tập quán uống trà
- Văn hóa trà.
10 chương Trà Kinh và 9 chữ trong cách uống trà Trung Quốc
Khi đọc bài “Lục Vũ: “Trà thần” Trung Quốc” của Jerry Love. Thầy muốn góp tài liệu về cuốn Trà Kinh của Lục Vũ với Jerry Love. Nhưng khi comment thì nó dài quá, nên thầy viết riêng một bài mới tại đây.
Tài liệu này Thầy nói tóm lược 10 chương của cuốn sách và cách uống trà 9 chữ cổ điển Trung Quốc thời Lục Vũ – Nhà Đường.
Thân thế và sự nghiệp Lục Vũ
Lục Vũ (728-804) tự Lục hồng Tiệm, một danh y thời Nhà Đường, là người huyện Thiên Môn, tỉnh Hồ Bắc. Thời niên thiếu ông ở trong một nhà chùa Phật giáo. Dưới thời trị vì của Hoàng đế Lý Long Chi, còn gọi là Đường minh Hoàng (712-755), tỉnh Long Trưởng, nơi mà Lục Vũ sinh ra, đã phát hiện tài năng của ông và giúp ông được vào trường học. Ông là người thực sự có tài, học hành chăm chỉ và được xã hội biết tiếng rất nhanh, nên được bổ nhiệm dạy học Hoàng Thái tử. Sau lại được tiến cử vào làm việc cho Thượng thư Bộ Lễ, nhưng ông không nhận.
Lục Vũ từ chối con đường làm quan, ham học tập, nghiên cứu và giao dịch với giới trí thức, văn nhân. Ông rất yêu thích cây chè, nghiên cứu thực tiễn cây chè một cách bền bỉ không mệt mỏi, nên rất thành thạo về gieo trồng, chọn giống, chế biến và uống trà.
10 chương của Trà Kinh
Năm 760, Lục Vũ quen sống cuộc đời ẩn dật của một nhà văn hoá ở Thiệu khê, Hồ châu, tỉnh Chiết giang và đã biên soạn cuốn “ Trà kinh ”, đến nay là cuốn chuyên khảo đầu tiên về chè trên thế giới. Cuốn sách chia thành 10 mục :
- Nhất chi nguyên: nói về nguồn gốc cây chè, ảnh hưởng của các điều kiện thiên nhiên đến chất lượng chè, công dụng của chè đối với sinh lý con người.
- Nhị chi cụ: nói về 15 công cụ trồng chè, hái chè, chế biến chè.
- Tam chi tạo: nói tiêu chuẩn phẩm cấp búp chè đối với các loại trà thành phẩm khác nhau, yêu cầu của chế biến trà.
- Tứ chi khí: giới thiệu 25 dụng cụ pha (nấu) chè, uống chè.
- Ngũ chi chủ: bàn về pha (nấu) trà, nêu lên các tiêu chuẩn phẩm chất trà.
- Lục chi ẩm: nói về uống trà, phưong pháp pha trà, gồm 9 thao tác trong ẩm trà hay còn gọi là Cửu đạo trà.
- Thất chi sử: ghi chép các danh nhân yêu thích chè và các trà thoại về trà, lịch sử cây chè, đồng thời còn giới thiệu về công dụng chữa bệnh của chè.
- Bát chi xuất: nói về các vùng chè, phân bố các vùng chè Đời Nhà Đường, bình luận về chất lượng trà của các vùng.
- Cửu chi lược: nói về khả năng đơn giản hoá một số khâu trong chế biến trà, phân loại trà trong một số điều kiện đặc thù: tại các chùa ở những vùng sâu xa, trên núi cao.
- Thập chi đồ: nói về các tranh ảnh vẽ về trà treo lên tường hay bầy biện trong nhà, để khỏi bị lãng quên.

Cuốn “ Trà kinh ” là cuốn sách Bách khoa toàn thư về chè lâu đời nhất từ đời Nhà Đường và có ảnh hưởng sâu xa, rộng lớn đến các đời sau này. Hiện nay, tại quê hương Lục Vũ, nhân dân đã xây dựng một nhà bảo tàng kỷ niệm Lục Vũ, để ghi nhớ đến người đã có cống hiến lớn cho văn hoá và lịch sử chè Trung Quốc. Ngoài ra còn dựng một tượng đồng Lục Vũ đang ngồi uống một chén chè tại quê hương Thiên Môn của ông.
9 chữ trong cách pha và uống trà cổ điển của Trung Hoa thời Lục Vũ (Nhà Đường).
Lục Vũ, người Trung Hoa thời Nhà Đường, đã tổng kết lần đầu tiên trên thế giới cách uống trà trong cuốn Trà Kinh thành “ cửu đạo trà “, làm cơ sở cho cách uống trà ngày nay, bao gồm 9 chữ : phẩm, ôn, đầu, trúng, mân, phục, chân, kính, ẩm.
• Phẩm : đánh giá phẩm chất trà bằng ngoại hình trà khô.
• Ôn : dùng nước sôi rửa sạch sẽ ấm chén pha trà, để tăng nhiệt độ nhằm chiết xuất tối đa các thành phần hữu hiệu của trà.
• Đầu : bốc một lượng trà thích đáng vào trong ấm, không quá nhiều hay quá ít, căn cứ vào loại trà và sở thích của khách uông trà.
• Trúng : pha nước sôi ít một, không đổ đầy ngay cả ấm một lần.
• Mân : hãm nước sôi đậy nắp kín, 1 – 2’ để cho cánh trà nở ra.
• Phục : lại tiếp tục pha nước sôi đầy ấm, để chiết xuất tối đa các thành phần hữu hiệu.
• Chân : rót nước trà trong ấm pha vào chén uống trà.
• Kính : dâng chén trà một cách kính cẩn mời khách uống.
• Ẩm : vừa uống vừa thưởng thức hương vị, vừa khen thơm ngon.
Văn Hóa Trà Nhật Bản

Thói quen thưởng trà vốn được xem là nét đẹp điển hình trong văn hóa ẩm thực Nhật xưa và nay. Tạo nên được một vẻ đẹp đặc trưng không giống với bất cứ thói quen thưởng trà của các quốc gia khác trên thế giới, có lẽ bởi người Nhật có một quan niệm về ý nghĩa, tác dụng việc uống trà, cách thức pha trà cũng như thưởng trà… rất khác biệt và tuân thủ những quy tắc chặt chẽ.


Thói quen thưởng trà vốn được xem là nét đẹp điển hình trong văn hóa ẩm thực Nhật xưa và nay.
Việc thưởng trà của người dân đất nước mặt trời mọc thể hiện hài hòa nét thẩm mỹ và tính triết học qua 4 yếu tố: wa - sự hài hòa (giữa con người và thiên nhiên), kei - sự tôn kính (đối với người khác), sei - sự tinh khiết (của tâm hồn) và jaku - sự yên tĩnh.
Uống trà mang đầy đủ những nét đặc trưng của văn hóa cũng như con người Nhật Bản. Việc thưởng trà không chỉ thể hiện sự tinh tế trong ẩm thực Nhật Bản mà còn thể hiện những triết lý, nhân sinh quan sâu sắc về cuộc sống. Không chỉ đơn thuần là việc thưởng trà, là ngon hay không ngon mà qua những chén trà đó, chúng ta thấy được tấm lòng giữa người với người trong cuộc sống, thể hiện tính giáo dục, nhân văn cao đẹp.
Vẻ đẹp tinh tế trong tâm hồn người thưởng trà cũng như tính giáo dục được thể hiện rõ nhất trong việc pha trà, rót trà, mời trà và cuối cùng là thưởng trà.
Cầu kì, khó tính từ việc pha trà…
Rót trà...
Mời Trà...
...đến thưởng trà
Việc thưởng trà của người dân đất nước mặt trời mọc thể hiện hài hòa nét thẩm mỹ và tính triết học qua 4 yếu tố: wa - sự hài hòa (giữa con người và thiên nhiên), kei - sự tôn kính (đối với người khác), sei - sự tinh khiết (của tâm hồn) và jaku - sự yên tĩnh.
Uống trà mang đầy đủ những nét đặc trưng của văn hóa cũng như con người Nhật Bản. Việc thưởng trà không chỉ thể hiện sự tinh tế trong ẩm thực Nhật Bản mà còn thể hiện những triết lý, nhân sinh quan sâu sắc về cuộc sống. Không chỉ đơn thuần là việc thưởng trà, là ngon hay không ngon mà qua những chén trà đó, chúng ta thấy được tấm lòng giữa người với người trong cuộc sống, thể hiện tính giáo dục, nhân văn cao đẹp.
Vẻ đẹp tinh tế trong tâm hồn người thưởng trà cũng như tính giáo dục được thể hiện rõ nhất trong việc pha trà, rót trà, mời trà và cuối cùng là thưởng trà.
Cầu kì, khó tính từ việc pha trà…
Rót trà...
Mời Trà...
...đến thưởng trà
Văn hoá trà Trung Hoa

Trung Quốc là quê hương của lá trà, người Trung Quốc là người biết đến cách trồng trà và chế biến các loại đồ uống từ lá trà sớm nhất. Trong lịch sử Trung Quốc có không ít các sách liên quan ghi chép tới trà như Trà xanh, Kinh trà, Trà phổ, Sử trà…Tất cả các loại sách đó rất có ích với việc chế biến trà cũng như cách trồng trà.

Trung Quốc là quê hương của lá trà, người Trung Quốc là người biết đến cách trồng trà và chế biến các loại đồ uống từ lá trà sớm nhất. Trong lịch sử Trung Quốc có không ít các sách liên quan ghi chép tới trà như Trà xanh, Kinh trà, Trà phổ, Sử trà…Tất cả các loại sách đó rất có ích với việc chế biến trà cũng như cách trồng trà.
“Người Trung Quốc rất thích các sản phẩm làm từ trà, ở trong nhà uống trà, lên quán trà cũng uống trà, bắt đầu cuộc họp cũng uống trà, bạn bè gặp nhau nói chuyện cũng uống trà, thậm chí, lúc giảng đạo lý cũng uống trà, trước khi ăn sáng uống trà, sau khi ăn cơm trưa cũng uống trà”. Thói quen uống trà của người Trung Quốc đã ảnh hưởng không ít tới quốc gia. Khoảng giữa thế kỷ 17, trà của người Trung Quốc bắt đầu du nhập vào nước Mỹ.
Đầu thế kỷ thứ 18, trà Trung Quốc bắt đầu thâm nhập vào thị trường Luân Đôn. Các loại đồ uống gải khát từ trà tại nước Anh bắt đầu lưu hành trở lại.Tại Ấn Độ, năm 1780, lần đầu tiên đã nhập vào loại trà Trung Quốc, tại Srilanca, năm 1841 mới bắt đầu trồng cây trà của Trung Quốc. Năm 1893, nước Nga đã mời một chuyên gia về kỹ thuật trồng trà Trung Quốc tới để phổ biến, lá trà đã có một sự phát triển nhanh chóng tới nhiều quốc gia trên thế giới.
Trong các loại trà trên lại được chia ra làm các tiểu loại trà nhỏ hơn rất nổi tiếng. Trà xanh có các loại như: trà Long Tỉnh của Tây Hồ Hàng Châu, trà Bích La Xuân của Thái Hồ Giang Tô, trà Hoàng Sơn Mao Đài của Hoàng Sơn tỉnh An Huy, trà Lục An Qua Phiến của Lục An tỉnh An Huy, trà Tín Dương Mao Tiêm của Tín Dương tỉnh Hồ Nam. Hồng trà có các loại trà nổi tiếng như trà Chấn Hồng của Vân Nam. Trà Ô Long bao gồm có trà Di Nham của Phúc Kiến, trà Thiết Quan Âm của Phúc Kiến, trà Ô Long của Đài Loan. Trà hoa có trà ướp hoa nhài của Phúc Châu, trà hoa nhài của Hàng Châu và trà hoa nhài của Tô Châu. Loại cuối cùng là trà ép bao gồm có trà Phổ Nhĩ của huyện Tư mão tỉnh Vân Nam và Tây Song Bản Nạp, Lục bảo trà của Quảng Tây.
Trong các loại trà trên thì trà Long Tỉnh của Tây Hồ là nổi tiếng nhất, nó có lịch sử lên tới hàng nghìn năm, trà Long Tỉnh có bốn đặc điểm, đó là sắc, hương , vị và hình dáng lá trà.
Việc chế biến trà Long Tỉnh phân ra làm hai phần, phần thứ nhất là bỏ lá trà vào trong một chiếc nồi, đun ở nhiệt độ 80 độ C trong vòng từ 15 tới 20 phút. Phần thứ hai là bỏ tất cả lá trà đã được sao qua đem bỏ vào vào trong một chiếc chảo lớn, đảo liên tục trong vòng từ 30 tới 40 phút ở 40 độ C. Trong thời gian chế biến trà, toàn bộ phải làm bằng tay, không được sử dụng bất cứ loại vật dụng nào để thay thế. Một kilô gam trà Long Tỉnh được chế biến từ bốn kg lá trà tươi, qua tám tiếng gia công, chính vì vậy mà trà Long Tỉnh được tôn vinh là loại trà báu vật hàng thủ công.
Trà Long Tỉnh có hàm lượng chất dinh dưỡng rất cao, nó bao gồm VitaminC, Vitamin E và hơn 24 loại nguyên tố khác. Khi pha trà Long Tỉnh, nhiệt độ của nước không được cao quá, thông thường từ khoảng 80 tới 90 độ C. Nếu nhiệt độ nước cao quá sẽ khiến cho các thành phần vitamin trong lá trà mất đi. Người ta uống trà Long Tỉnh thường uống trong cốc thuỷ tinh, tốt nhất là chỉ uống ba cốc, cốc thứ nhất để ngửi, cốc hứ hai để uống và cốc thứ ba để nhìn.
Người Trung Quốc ở phương nam có thói quen dùng “nguyên bảo trà” để mời khách, trong cốc trà còn bỏ thêm hai miếng quýt để biểu thị cát tường, may mắn. Ở Mông Cổ, người ta hay dùng trà sữa hoặc trà bơ để tiếp đãi khách. Còn có nơi, nam nữ đính hôn lấy trà làm lễ, phía nhà gái nhận lễ từ nhà trai gọi là “hạ trà” hoặc “thụ trà”, đem lễ nghĩa hôn nhân gọi thành “tam trà chi lễ”, chính là “hạ trà” trong lễ đính hôn, “định trà” trong lễ kết hôn và “hợp trà” trong lúc động phòng.
“Người Trung Quốc rất thích các sản phẩm làm từ trà, ở trong nhà uống trà, lên quán trà cũng uống trà, bắt đầu cuộc họp cũng uống trà, bạn bè gặp nhau nói chuyện cũng uống trà, thậm chí, lúc giảng đạo lý cũng uống trà, trước khi ăn sáng uống trà, sau khi ăn cơm trưa cũng uống trà”. Thói quen uống trà của người Trung Quốc đã ảnh hưởng không ít tới quốc gia. Khoảng giữa thế kỷ 17, trà của người Trung Quốc bắt đầu du nhập vào nước Mỹ.
Đầu thế kỷ thứ 18, trà Trung Quốc bắt đầu thâm nhập vào thị trường Luân Đôn. Các loại đồ uống gải khát từ trà tại nước Anh bắt đầu lưu hành trở lại.Tại Ấn Độ, năm 1780, lần đầu tiên đã nhập vào loại trà Trung Quốc, tại Srilanca, năm 1841 mới bắt đầu trồng cây trà của Trung Quốc. Năm 1893, nước Nga đã mời một chuyên gia về kỹ thuật trồng trà Trung Quốc tới để phổ biến, lá trà đã có một sự phát triển nhanh chóng tới nhiều quốc gia trên thế giới.
Trong các loại trà trên lại được chia ra làm các tiểu loại trà nhỏ hơn rất nổi tiếng. Trà xanh có các loại như: trà Long Tỉnh của Tây Hồ Hàng Châu, trà Bích La Xuân của Thái Hồ Giang Tô, trà Hoàng Sơn Mao Đài của Hoàng Sơn tỉnh An Huy, trà Lục An Qua Phiến của Lục An tỉnh An Huy, trà Tín Dương Mao Tiêm của Tín Dương tỉnh Hồ Nam. Hồng trà có các loại trà nổi tiếng như trà Chấn Hồng của Vân Nam. Trà Ô Long bao gồm có trà Di Nham của Phúc Kiến, trà Thiết Quan Âm của Phúc Kiến, trà Ô Long của Đài Loan. Trà hoa có trà ướp hoa nhài của Phúc Châu, trà hoa nhài của Hàng Châu và trà hoa nhài của Tô Châu. Loại cuối cùng là trà ép bao gồm có trà Phổ Nhĩ của huyện Tư mão tỉnh Vân Nam và Tây Song Bản Nạp, Lục bảo trà của Quảng Tây.
Trong các loại trà trên thì trà Long Tỉnh của Tây Hồ là nổi tiếng nhất, nó có lịch sử lên tới hàng nghìn năm, trà Long Tỉnh có bốn đặc điểm, đó là sắc, hương , vị và hình dáng lá trà.
Việc chế biến trà Long Tỉnh phân ra làm hai phần, phần thứ nhất là bỏ lá trà vào trong một chiếc nồi, đun ở nhiệt độ 80 độ C trong vòng từ 15 tới 20 phút. Phần thứ hai là bỏ tất cả lá trà đã được sao qua đem bỏ vào vào trong một chiếc chảo lớn, đảo liên tục trong vòng từ 30 tới 40 phút ở 40 độ C. Trong thời gian chế biến trà, toàn bộ phải làm bằng tay, không được sử dụng bất cứ loại vật dụng nào để thay thế. Một kilô gam trà Long Tỉnh được chế biến từ bốn kg lá trà tươi, qua tám tiếng gia công, chính vì vậy mà trà Long Tỉnh được tôn vinh là loại trà báu vật hàng thủ công.
Trà Long Tỉnh có hàm lượng chất dinh dưỡng rất cao, nó bao gồm VitaminC, Vitamin E và hơn 24 loại nguyên tố khác. Khi pha trà Long Tỉnh, nhiệt độ của nước không được cao quá, thông thường từ khoảng 80 tới 90 độ C. Nếu nhiệt độ nước cao quá sẽ khiến cho các thành phần vitamin trong lá trà mất đi. Người ta uống trà Long Tỉnh thường uống trong cốc thuỷ tinh, tốt nhất là chỉ uống ba cốc, cốc thứ nhất để ngửi, cốc hứ hai để uống và cốc thứ ba để nhìn.
Người Trung Quốc ở phương nam có thói quen dùng “nguyên bảo trà” để mời khách, trong cốc trà còn bỏ thêm hai miếng quýt để biểu thị cát tường, may mắn. Ở Mông Cổ, người ta hay dùng trà sữa hoặc trà bơ để tiếp đãi khách. Còn có nơi, nam nữ đính hôn lấy trà làm lễ, phía nhà gái nhận lễ từ nhà trai gọi là “hạ trà” hoặc “thụ trà”, đem lễ nghĩa hôn nhân gọi thành “tam trà chi lễ”, chính là “hạ trà” trong lễ đính hôn, “định trà” trong lễ kết hôn và “hợp trà” trong lúc động phòng.
Việt Nam có Trà Đạo không ?
Đây là một câu hỏi hay mà một số bạn uống trà đã thảo luận sôi nổi trên báo chí và tập san ở hai miền Bắc Nam, của một anh bạn hội viên CLB Trà Việt vô danh đã ghi trong blog comment (Mục 10 chương và 9 điều trong “Trà Kinh” của Lục Vũ).
Bạn đúng là một người tiêu dùng thông thái không chỉ đơn giản bằng lòng với hương vị và màu nước của một chén trà phương Đông. Bạn còn có nhu cầu tìm hiểu sâu bản chất và ý nghĩa của nghệ thuật uống trà.

Bạn đúng là một người tiêu dùng thông thái không chỉ đơn giản bằng lòng với hương vị và màu nước của một chén trà phương Đông. Bạn còn có nhu cầu tìm hiểu sâu bản chất và ý nghĩa của nghệ thuật uống trà.

Đây là một câu hỏi hay mà một số bạn uống trà đã thảo luận sôi nổi trên báo chí và tập san ở hai miền Bắc Nam, của một anh bạn hội viên CLB Trà Việt vô danh đã ghi trong blog comment (Mục 10 chương và 9 điều trong “Trà Kinh” của Lục Vũ).
Bạn đúng là một người tiêu dùng thông thái không chỉ đơn giản bằng lòng với hương vị và màu nước của một chén trà phương Đông. Bạn còn có nhu cầu tìm hiểu sâu bản chất và ý nghĩa của nghệ thuật uống trà.
Lời đáp quả thật không đơn giản, vì phải giải đáp được các câu hỏi sau đây:
Nhưng cũng không cầu toàn, nên xin mạnh dạn đóng góp một vài gợi ý ban đầu để chia sẻ với các bạn hôi viên cùng nghiên cứu. Không phải là những chỉ giáo, vì đến nay chưa có hội thảo chuyên sâu về Văn hóa trà của các nhà khoa học, lịch sử và văn hóa trà ở Việt Nam.
1. Trà Đạo Nhật Bản – xuất xứ và nội dung ?
Trà đạo – CHADO, hay SADO, hay CHA-NO-YU – là một lễ nghi cao thượng ở Nhật Bản, có nguồn gốc Thiền (Zen) của Đạo Phật, nhằm tôn vinh cái đẹp trong cuộc sống đời thường. Đây là một biểu diễn nghệ thuật của khách đến thăm chủ nhà, trong đó mọi động tác đều được quy định theo một quy trình chặt chẽ. Trà đạo được giảng dạy tại các Trường chuyên. Tuy có những khác biệt giữa nhiều trường phái, nhưng tất cả đều có một tinh thần nguyên tắc thống nhất. Trà Đạo Nhật Bản ra mắt tại chùa Kinh sơn tự; và đề xuất 4 nguyên tắc “ Hoà – Kính – Thanh – Tịnh ” để bồi dưỡng đạo đức và nếp sống xử thế văn minh trong xã hội con người.
Trà Đạo là một triết lý về cái đẹp trong cuộc sống đời thường con người. Trà Đạo Nhật Bản gợi lên cho người thưởng thức trà một cảm xúc trong sáng, hài hoà, huyền bí và lãng mạn của trật tự xã hội. Đây là một yêu cầu về tinh khiết, vì nó đòi hỏi thanh tịnh; một đạo đức tiết kiệm, vì nó chứng minh cho chúng ta, hạnh phúc cuộc đời chủ yếu là sự đơn giản hơn là sự phức tạp phiền toái và chi tiêu hoang phí; một thước đo tinh thần nhằm xác định vị trí của con người chúng ta trong vũ trụ. Triết lý của Trà Đạo không chỉ đơn giản tôn vinh cái đẹp theo nghĩa thông thường của từ ngữ, mà kết hợp với mỹ học và tôn giáo, còn giúp cho việc thể hiện khái niệm tổng hợp của con người về Thiên – Địa – Nhân. Trà Đạo chính là Đạo Lão ngụy trang (Okakura Kazuko, 1906).
2. Trung Quốc có Trà đạo không ?
Kết quả hội thảo văn hóa trà của các học giả Trung quốc đã đề ra hai khái niệm : Trà đạo và Trà đức. Trịnh Khởi Khôn, Viện trưởng Viện nghiên cứu chè Trung Quốc tại Hàng Châu, Chiết Giang (1999) trong một công trình nghiên cứu “Tiến triển về nghiên cứu một số vấn đề văn hóa trà Trung Hoa” đã tổng kết ý kiến của các hội thảo chuyên đề như sau.
Văn hoá trà Trung Hoa có nội dung phong phú, tiếp cận với khoa học, đạo đức, thẩm mỹ và lễ nghi v …v… Tinh thần của nó bao hàm bốn mặt sau đây “ dưỡng sinh, tu tính, sảng tình, tuân lễ “. Thông qua sự truyền bá của văn hoá trà, đã ảnh hưởng sâu sắc đến thế giới quan của con người, thúc đẩy tiến bộ xã hội.
Ngô Tuệ Nông, trong cuốn Trà kinh thuật bình đã nhận thức rằng “ Trà đạo coi trà như một thứ nước uống quý giá tưạ ngọc ngà cao thượng. Uống trà là một sự hưởng thụ tinh thần, một loại hình nghệ thuật, hay một cách tu thân dưỡng tính “
Trang Vãn Phương “ Trà đạo là một loại nghi thức để tiến hành giáo dục lễ pháp, tu thân dưỡng đức đối với con người, thông qua phương thức uống trà “
Thắng Quân ” Trà đạo là kết tinh của văn hoá Nhật Bản. Trà đạo được coi là triết học hoá và nghệ thuật hoá ứng dụng vào lĩnh vực đời sống. Trà đạo là một bộ môn lấy uống trà làm nội dung của văn hoá nghệ năng, là một cách kết hợp hoàn mỹ của văn hoá truyền thống với trà sự, đó là một phương pháp xã giao lễ nghi, tu thân dưỡng tính và giáo dục đạo đức “
Trần văn Hoài ” Tinh thần cuả trà nghệ và trà đạo là hạt nhân của văn hoá trà Trung Quốc, chữ nghệ nói ở đây là chỉ cái thuật của trà nghệ trong chế biến, pha uống và cách thưởng thức trà; chữ đạo nói ở đây là chỉ cái tinh thần quán triệt trong suốt cả quá trình trà nghệ. Nói một cách giản đơn Trà đạo chính là tinh thần, đạo đức, quy luật, cội nguồn và bản chất; thường thường thì nó nhìn không thấy, sờ không thấy, nhưng nó lại hoàn toàn có thể lĩnh hội được thông qua tâm linh.
Trần Hương Bạch nhận thức rằng :” Hạt nhân của trà đạo là hoà ; ý nghĩa của trà đạo gồm có 7 điểm : tức là trà nghệ, trà đức, trà lễ, trà tình, trà học thuyết và trà đạo, được định hình từ thời Đường đang thịnh vượng.
Trình Khởi Khôn (1990) trong “ Trung Quốc trà đức ” đề xuất Trà đức Trung Quốc là “ Lý, Kính, Thanh, Xúc “.
Vương Linh (1995), trong “ Tinh thần trà đạo truyền thống của Trà đạo Trung Quốc và hướng đi tới của văn hoá trà thời đại mới “, nhận thức rằng Trà đạo Trung Quốc là sự hợp nhất của đạo nhà, đạo trời và đạo người, là tư tưởng tam hoà của thiên thời, địa lợi và nhân hoà cùng sánh vai với nhau; lấy tư tưởng chỉ đạo là nho gia và lấy tinh thần nhà Phật phổ độ chúng sinh làm tôn chỉ, tức là sự tập hợp tư tưởng ưu tú của Nho giáo, Đạo giáo và Phật giáo.
Lưu Khâu Văn, Lưu Tổ Sinh và Trương Đằng Hằng (1994) viết: Trà đức là một thể hiện của một loại văn hoá tinh thần, một khám phá tìm tòi tương đối thâm thuý của một số người yêu thích uống trà, trải qua nhiều thời đại lịch sử. Trà đạo là một số hình thức biểu hiện hay một số quy phạm hay phép tắc của loại văn hoá tinh thần đó.
Trà đạo Trung Quốc không có một hình thức nhất định, mà khi thì hưng thịnh khi thì suy thoái. Từ cuốn sách Trà Kinh và Trà đạo đại hành của Lục Vũ cho đến ngày nay, ý nghĩa và cả nội dung của Trà đạo đều đã phát triển và biến hoá. Nhưng sau khi Trà đạo Trung quốc truyền bá sang Nhật Bản, kinh qua các tăng lữ, võ sỹ đạo và tướng tá, kết hợp với tính sáng tạo đổi mới của Nhật Bản, lưu truyền từ đời này đến đời khác, thì nội dung và hình thức, đều mang đặc sắc dân tộc mới mẻ của Nhật Bản.
Nghệ thuật uống trà xưa và nay định nghĩa theo nghĩa hẹp là kỹ thuật phân tích đánh giá những điểm tốt xấu của trà. Theo nghĩa rộng là một phương thức sinh hoạt lấy nội dung chủ yếu là phẩm trà (phân tích đánh giá chất lượng trà tốt xấu).
3. Việt Nam có Trà đạo không ?
Theo “ Từ điển tiếng Việt “ của Viện Ngôn Ngữ Học, do Hoàng Phê chủ biên (1998) trang 280, chữ đạo có ba nghĩa sau đây :
Còn hiểu theo nghĩa thứ nhất “đường lối, nguyên tắc mà con người phải giữ gìn tuân theo trong cuộc sống xã hội”, thì Việt Nam có Trà đạo. Đó là phong tục tập quán uống trà hay nghệ thuật uống trà, với nội dung bao gồm cách thưởng thức phẩm chất của trà và giá trị phi vật thể biểu hiện trong nghi thức giao tiếp ứng xử, như đạo đức niềm tin của con người đối với bản thân, xã hội và đất nước.
Như vậy Trà chỉ là một vật phẩm xúc tác dùng trong hoạt động giao tiếp, lễ nghi và tôn giáo mà thôi, chứ không có nghĩa huyền bí khó hiểu như khái niệm “ Trà là hiện thân của Đạo, theo công thức Trà = Đạo = Phật (Ngô Linh Ngọc) “.
Bạn đúng là một người tiêu dùng thông thái không chỉ đơn giản bằng lòng với hương vị và màu nước của một chén trà phương Đông. Bạn còn có nhu cầu tìm hiểu sâu bản chất và ý nghĩa của nghệ thuật uống trà.
Lời đáp quả thật không đơn giản, vì phải giải đáp được các câu hỏi sau đây:
- Trà Đạo Nhật Bản – xuất xứ và nội dung ?
- Trung Quốc có Trà đạo không ?
- Việt Nam có Trà đạo không ?
- Những tư liệu nào cần tham khảo để có thông tin bổ sung ?
Nhưng cũng không cầu toàn, nên xin mạnh dạn đóng góp một vài gợi ý ban đầu để chia sẻ với các bạn hôi viên cùng nghiên cứu. Không phải là những chỉ giáo, vì đến nay chưa có hội thảo chuyên sâu về Văn hóa trà của các nhà khoa học, lịch sử và văn hóa trà ở Việt Nam.
1. Trà Đạo Nhật Bản – xuất xứ và nội dung ?
Trà đạo – CHADO, hay SADO, hay CHA-NO-YU – là một lễ nghi cao thượng ở Nhật Bản, có nguồn gốc Thiền (Zen) của Đạo Phật, nhằm tôn vinh cái đẹp trong cuộc sống đời thường. Đây là một biểu diễn nghệ thuật của khách đến thăm chủ nhà, trong đó mọi động tác đều được quy định theo một quy trình chặt chẽ. Trà đạo được giảng dạy tại các Trường chuyên. Tuy có những khác biệt giữa nhiều trường phái, nhưng tất cả đều có một tinh thần nguyên tắc thống nhất. Trà Đạo Nhật Bản ra mắt tại chùa Kinh sơn tự; và đề xuất 4 nguyên tắc “ Hoà – Kính – Thanh – Tịnh ” để bồi dưỡng đạo đức và nếp sống xử thế văn minh trong xã hội con người.
Trà Đạo là một triết lý về cái đẹp trong cuộc sống đời thường con người. Trà Đạo Nhật Bản gợi lên cho người thưởng thức trà một cảm xúc trong sáng, hài hoà, huyền bí và lãng mạn của trật tự xã hội. Đây là một yêu cầu về tinh khiết, vì nó đòi hỏi thanh tịnh; một đạo đức tiết kiệm, vì nó chứng minh cho chúng ta, hạnh phúc cuộc đời chủ yếu là sự đơn giản hơn là sự phức tạp phiền toái và chi tiêu hoang phí; một thước đo tinh thần nhằm xác định vị trí của con người chúng ta trong vũ trụ. Triết lý của Trà Đạo không chỉ đơn giản tôn vinh cái đẹp theo nghĩa thông thường của từ ngữ, mà kết hợp với mỹ học và tôn giáo, còn giúp cho việc thể hiện khái niệm tổng hợp của con người về Thiên – Địa – Nhân. Trà Đạo chính là Đạo Lão ngụy trang (Okakura Kazuko, 1906).
2. Trung Quốc có Trà đạo không ?
Kết quả hội thảo văn hóa trà của các học giả Trung quốc đã đề ra hai khái niệm : Trà đạo và Trà đức. Trịnh Khởi Khôn, Viện trưởng Viện nghiên cứu chè Trung Quốc tại Hàng Châu, Chiết Giang (1999) trong một công trình nghiên cứu “Tiến triển về nghiên cứu một số vấn đề văn hóa trà Trung Hoa” đã tổng kết ý kiến của các hội thảo chuyên đề như sau.
Văn hoá trà Trung Hoa có nội dung phong phú, tiếp cận với khoa học, đạo đức, thẩm mỹ và lễ nghi v …v… Tinh thần của nó bao hàm bốn mặt sau đây “ dưỡng sinh, tu tính, sảng tình, tuân lễ “. Thông qua sự truyền bá của văn hoá trà, đã ảnh hưởng sâu sắc đến thế giới quan của con người, thúc đẩy tiến bộ xã hội.
Ngô Tuệ Nông, trong cuốn Trà kinh thuật bình đã nhận thức rằng “ Trà đạo coi trà như một thứ nước uống quý giá tưạ ngọc ngà cao thượng. Uống trà là một sự hưởng thụ tinh thần, một loại hình nghệ thuật, hay một cách tu thân dưỡng tính “
Trang Vãn Phương “ Trà đạo là một loại nghi thức để tiến hành giáo dục lễ pháp, tu thân dưỡng đức đối với con người, thông qua phương thức uống trà “
Thắng Quân ” Trà đạo là kết tinh của văn hoá Nhật Bản. Trà đạo được coi là triết học hoá và nghệ thuật hoá ứng dụng vào lĩnh vực đời sống. Trà đạo là một bộ môn lấy uống trà làm nội dung của văn hoá nghệ năng, là một cách kết hợp hoàn mỹ của văn hoá truyền thống với trà sự, đó là một phương pháp xã giao lễ nghi, tu thân dưỡng tính và giáo dục đạo đức “
Trần văn Hoài ” Tinh thần cuả trà nghệ và trà đạo là hạt nhân của văn hoá trà Trung Quốc, chữ nghệ nói ở đây là chỉ cái thuật của trà nghệ trong chế biến, pha uống và cách thưởng thức trà; chữ đạo nói ở đây là chỉ cái tinh thần quán triệt trong suốt cả quá trình trà nghệ. Nói một cách giản đơn Trà đạo chính là tinh thần, đạo đức, quy luật, cội nguồn và bản chất; thường thường thì nó nhìn không thấy, sờ không thấy, nhưng nó lại hoàn toàn có thể lĩnh hội được thông qua tâm linh.
Trần Hương Bạch nhận thức rằng :” Hạt nhân của trà đạo là hoà ; ý nghĩa của trà đạo gồm có 7 điểm : tức là trà nghệ, trà đức, trà lễ, trà tình, trà học thuyết và trà đạo, được định hình từ thời Đường đang thịnh vượng.
Trình Khởi Khôn (1990) trong “ Trung Quốc trà đức ” đề xuất Trà đức Trung Quốc là “ Lý, Kính, Thanh, Xúc “.
Vương Linh (1995), trong “ Tinh thần trà đạo truyền thống của Trà đạo Trung Quốc và hướng đi tới của văn hoá trà thời đại mới “, nhận thức rằng Trà đạo Trung Quốc là sự hợp nhất của đạo nhà, đạo trời và đạo người, là tư tưởng tam hoà của thiên thời, địa lợi và nhân hoà cùng sánh vai với nhau; lấy tư tưởng chỉ đạo là nho gia và lấy tinh thần nhà Phật phổ độ chúng sinh làm tôn chỉ, tức là sự tập hợp tư tưởng ưu tú của Nho giáo, Đạo giáo và Phật giáo.
Lưu Khâu Văn, Lưu Tổ Sinh và Trương Đằng Hằng (1994) viết: Trà đức là một thể hiện của một loại văn hoá tinh thần, một khám phá tìm tòi tương đối thâm thuý của một số người yêu thích uống trà, trải qua nhiều thời đại lịch sử. Trà đạo là một số hình thức biểu hiện hay một số quy phạm hay phép tắc của loại văn hoá tinh thần đó.
Trà đạo Trung Quốc không có một hình thức nhất định, mà khi thì hưng thịnh khi thì suy thoái. Từ cuốn sách Trà Kinh và Trà đạo đại hành của Lục Vũ cho đến ngày nay, ý nghĩa và cả nội dung của Trà đạo đều đã phát triển và biến hoá. Nhưng sau khi Trà đạo Trung quốc truyền bá sang Nhật Bản, kinh qua các tăng lữ, võ sỹ đạo và tướng tá, kết hợp với tính sáng tạo đổi mới của Nhật Bản, lưu truyền từ đời này đến đời khác, thì nội dung và hình thức, đều mang đặc sắc dân tộc mới mẻ của Nhật Bản.
Nghệ thuật uống trà xưa và nay định nghĩa theo nghĩa hẹp là kỹ thuật phân tích đánh giá những điểm tốt xấu của trà. Theo nghĩa rộng là một phương thức sinh hoạt lấy nội dung chủ yếu là phẩm trà (phân tích đánh giá chất lượng trà tốt xấu).
3. Việt Nam có Trà đạo không ?
Theo “ Từ điển tiếng Việt “ của Viện Ngôn Ngữ Học, do Hoàng Phê chủ biên (1998) trang 280, chữ đạo có ba nghĩa sau đây :
- Đường lối, nguyên tắc mà con người phải giữ gìn và tuân theo trong cuộc sống xã hội như đạo làm người, đạo vợ chồng, ăn ở cho phải đạo …
- Nội dung học thuật của một học thuyết được tôn sùng ngày xưa, như tầm sư học đạo, mến đạo thánh hiền …
- Một tổ chức tôn giáo, như đạo Thiên chúa, đạo Phật, đạo Hồi, đi đạo …
Còn hiểu theo nghĩa thứ nhất “đường lối, nguyên tắc mà con người phải giữ gìn tuân theo trong cuộc sống xã hội”, thì Việt Nam có Trà đạo. Đó là phong tục tập quán uống trà hay nghệ thuật uống trà, với nội dung bao gồm cách thưởng thức phẩm chất của trà và giá trị phi vật thể biểu hiện trong nghi thức giao tiếp ứng xử, như đạo đức niềm tin của con người đối với bản thân, xã hội và đất nước.
Như vậy Trà chỉ là một vật phẩm xúc tác dùng trong hoạt động giao tiếp, lễ nghi và tôn giáo mà thôi, chứ không có nghĩa huyền bí khó hiểu như khái niệm “ Trà là hiện thân của Đạo, theo công thức Trà = Đạo = Phật (Ngô Linh Ngọc) “.